Vì sao VN không kiện TQ ra một trọng tài quốc tế ?
par Nhân Tuấn Trương, dimanche 3 juin 2012, 09:36 ·
Trung
Quốc bắt đầu lên tiếng tranh dành quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ năm
1909. Trong thời kỳ bảo hộ, nước Pháp, đại diện đế quốc An Nam, đề nghị
hai lần với Trung Quốc một trọng tài phân giải, vào năm 1932 và năm
1947, nhưng cả hai lần Trung Quốc đều không đáp ứng. Thái độ của Trung
Quốc có thể biết trước, vì không ai dại dột đặt cược lớn khi biết mình
không có hy vọng nào để thắng. Ở các thời điểm đó Trung Quốc không hề có
cơ sở pháp lý hay bằng chứng lịch sử nào để có thể chứng minh chủ quyền
của họ tại quần đảo Hoàng Sa. Do đó họ chủ trương sử dụng mưu kế hay
chờ đợi thời cơ, dùng vũ lực để giải quyết vấn đề. Kể từ đó, nhiều thế
hệ lãnh đạo, hay chế độ chính trị, tiếp nối nhau, mục tiêu chiến lược
của Trung Quốc không thay đổi. Năm 1956 Trung Quốc lợi dụng cơ hội sự
lúng túng của Pháp tại Đông Dương đổ quân chiếm nhóm đảo An Vĩnh. Năm
1974, lợi dụng cơ hội Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam Việt Nam, TQ dùng vũ lực
chiếm nốt nhóm đảo còn lại là nhóm Nguyệt Thiềm, qua một trận hải chiến
bất cân xứng giữa hải quân nước này với hải quân của Việt Nam Cộng Hòa.
Nhưng điều đáng ngại là mục tiêu chiến lược của Trung Quốc bao gồm luôn
quần đảo Trường Sa và một vùng biển chiếm khoảng 80% diện tích biển
Đông. Tham vọng bành trướng của TQ sẽ không ngừng ở Hoàng Sa. Họ có thể
sử dụng vũ lực bất kỳ khi nào có thời cơ thuận tiện để chiếm quần đảo
Trường Sa và vùng biển tại đây.
Điều làm người ta bất mãn
là thái độ hiện nay của nhà cầm quyền CSVN. Họ luôn tuyên bố rằng Việt
Nam có chủ quyền không thể chối cãi ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Nhưng họ luôn thụ động trước vố số hành vi dã man của hải quân Trung
Quốc đối với ngư dân Việt Nam như bắn giết, bắt cóc đòi tiền chuộc,
tịch thâu thuyền bè và dụng cụ… khi những người dân này buông lưới tại
những vùng biển truyền thống của Việt Nam, chung quanh quần đảo Hoàng Sa
hay Trường Sa, thậm chí ngay trong vịnh Bắc Việt, trong vùng biển thuộc
chủ quyền của VN ; hoặc các thái độ ngang ngược của Trung Quốc khi cho
đặt các dàn khoan dầu khí, nhiều nơi ngay trên thềm lục địa của Việt
Nam, cách bờ chưa tới 250km, trong khi cách đảo Hải Nam đến hàng ngàn
km. Hành động phản đối gọi là « kịch liệt » lắm của Hà Nội vẫn chỉ giới
hạn ở các tuyên bố suông. Trong khi đó, một mặt, các chiến hạm của TQ,
ngụy trang dưới lớp vỏ các tàu Ngư Chính, vẫn thường xuyên đi tuần tiễu ở
biển Đông, trong vùng thuộc Hoàng Sa và Trường Sa, để khủng bố ngư dân
VN và mặt khác, hàng năm, Bắc Kinh còn hạ lệnh cấm biển trên biển Đông,
trong một vùng rộng lớn, trong nhiều tháng (từ tháng 5 đến tháng 8 hàng
năm), với lý do bảo vệ nguồn thủy sản. Đôi lúc họ còn ra lệnh cấm biển
vì lý do quân sự : hải quân TQ diễn tập, cấm thuyền bè qua lại. Hậu quả
các việc này làm cho đời sống của ngư dân VN đảo lộn, hầu hết lâm vào
cảnh khó khăn nghèo đói, một số phải bỏ nghề. Nhưng tệ hại hơn cả là nếu
việc này tiến diễn thêm vài năm nữa mà phía VN vẫn chỉ tuyên bố hay
phản đối suông mà không có hành động cụ thể để ngặn chặn, chủ quyền của
Trung Quốc tại các vùng biển này sẽ được khẳng định.
Bởi
vì, một cách để chứng minh chủ quyền của quốc gia ở một vùng lãnh thổ
hay biển đảo nào đó là áp đặt được quyền tài phán của quốc gia ở các
vùng đó. Nếu lệnh cấm biển của TQ được ngư dân VN « thi hành », như các
việc đóng tiền phạt chuộc ngư cụ, hay không đánh cá tại các vùng biển do
TQ cấm, cho dầu qua hình thức cưỡng bức, điều này cũng hàm ý VN chấp
nhận quyền tài phán của Trung Quốc (ở các vùng biển bị cấm). Tức VN mặc
nhiên chấp nhận các vùng biển đó chủ quyền thuộc về Trung Quốc.
Như thế thời gian cũng là một yếu tố rất bất lợi cho Việt Nam.
Trước
nguy cơ lớn lao, đe dọa sự tồn vong và tương lai vinh nhục của cả dân
tộc, nhà cầm quyền VN đến nay vẫn không có một biện pháp nào xem ra có
thể thích nghi để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa. Trong khi đó quyền lợi
của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa lại bị TQ đe dọa trầm trọng.
Trong
các năm vừa qua VN đã đảm nhận những vai trò quan trọng trên quốc tế,
như là thành viên luân phiên của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, hay làm
chủ tịch ASEAN. Thời cơ do đó không phải là thiếu. Tại sao VN không đưa
các vụ tranh chấp ra tòa án quốc tế hay trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc ?
Các hành động này có thể ít có hiệu quả trên thực tế, vì thái độ ngang
ngược, bá quyền của Trung Quốc, nhưng ít nhứt nó sẽ xoa dịu những bất
bình đến từ công chúng trong nước, và trong chừng mực, khẳng định tính
chính đáng về lãnh đạo của đảng CSVN.
Dưới thời thuộc địa,
nước Pháp ràng buộc với đế quốc An Nam qua hiệp ước bảo hộ, họ có nhiệm
vụ « bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đế quốc An Nam trước kẻ thù gây hấn
bên ngoài ». Người ta có thể phê bình nước Pháp về nhiều mặt, nhưng về
vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa thì các hành động của Pháp có thể gọi là
tạm đủ.
Nhưng hành động của đảng CSVN, từ khi « cướp chính
quyền từ tay Pháp, Nhật », lập được nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ
năm 1949, cho đến năm 1975 « đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào », gồm thu đất
nước về một mối « Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam », thì chưa bao giờ
củng cố hay khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường
Sa.
Câu hỏi chính đáng đặt ra : Tại sao Việt Nam không đề
nghị một trọng tài quốc tế để phân xử tranh chấp biển Đông, ít ra tại
Hoàng Sa, trong khi nước Pháp đã hai lần đề nghị trong quá khứ ?
Người ta chỉ có thể tìm thấy câu trả lời qua các hành vi của nhà nước này trong từ thập niên 90, qua vụ TQ xâm lấn bãi Tư Chính.
Tháng
5 năm 1992, phía TQ ký hợp đồng với công ty khai thác dầu khí Cresston
của Hoa Kỳ nhằm khai thác khu vực Vạn An Bắc, tức khu vực Tư Chính của
Việt Nam. Lý lẽ của phía TQ là vùng Vạn An Bắc thuộc « vùng nước và thềm
lục địa kế cận các đảo Nam Sa (tức Trường Sa) của TQ ». Khu vực này
cách bờ biển VN 160 hải lý và cách đảo Hải Nam trên 600 hải lý.
Lý
lẽ của TQ như thế phải hiểu : 1/ TQ có chủ quyền tại TS. 2/ Các đảo TS
có hiệu lực là « đảo » và 3/ vùng Tư Chính, tức Vạn An Bắc, là vùng
chồng lấn giữa thềm lục địa bờ biển VN với các đảo TS.
Theo
lý lẽ của tổ hợp luật sư Covington & Burling ở Washington phụ trách
bênh vực quyền lợi của VN. Hồ sơ bãi Tư Chính được thành hình năm 1995,
do Brice M. Claget thuộc tổ hợp thành lập, mang tên : “Những yêu sách
đối kháng của Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực bãi ngầm Tư Chính và
Thanh Long trong biển Đông”. Lập luận của hồ sơ này là : 1/ bãi Tư Chính
nằm trên thềm lục địa của VN, 2/ các đảo Trường Sa quá nhỏ để có hiệu
lực của « đảo » theo luật Biển 1982 và 3/ vì vậy không hề có chồng lấn
giữa các đảo TS với thềm lục địa VN.
Ta thấy các nhược
điểm trong lập luận của Brice M. Claget là : 1/ không xác định chủ quyền
của VN trên các đảo TS, không phản đối chủ quyền của TQ ở các đảo TS,
điều này có thể hiểu ngầm VN đồng ý TQ có chủ quyền tại các đảo này. 2/
Các đảo TS quá nhỏ để có hiệu lực của « đảo ». Lý lẽ này không vững vì
yếu tố lớn hay nhỏ của một đảo không hề được đề cập trong luật Biển
1982. Một đảo có hiệu lực hay không là do hai việc : a) có thích hợp cho
người sinh sống và b) có một nền kinh tế tự túc.
Tại sao phía VN chấp nhận lý lẽ của tổ hợp luật sư trong hồ sơ « Tư Chính » mà không hề có bảo lưu về chủ quyền của VN tại TS ?
Lý
ra, VN có thể nhân vụ này kiện TQ ra một trọng tài quốc tế ít nhất về 3
lẽ : 1/ khu vực Tư chính nằm trên thềm lục địa của VN (theo qui định
200 hải lý tính từ đường cơ bản theo luật Biển 1982. 2/ Chủ quyền các
đảo mà TQ gọi là Nam Sa, thực ra là Trường Sa, từ lâu đã thuộc về VN. 3/
Không hề có việc « chồng lấn » hiệu lực giữa các đảo « Nam Sa » với
thềm lục địa VN, đơn giản vì các đảo TS, mà TQ tiếm gọi là Nam Sa, thuộc
về VN.
Mấy ông luật sư của HK trong tổ hợp Covington
& Burling ở Washington đã « không ngu » như ta tưởng. Vì nếu đưa vấn
đề chủ quyền của VN tại TS vào hồ sơ thì phải thay đổi hoàn toàn các dữ
kiện, mà điều quan trọng là phải chứng minh VN có chủ quyền tại các đảo
này. Làm việc này thì sẽ gặp một trở ngại lớn lao là phải vô hiệu hóa
các tuyên bố đơn phương (déclaration unilatérale) cũng như các thái độ
mặc nhiên đồng thuận (acquiescement) của nhà nước CSVN về chủ quyền của
TQ tại HS và TS trong quá khứ.
Đó là 1/ tuyên bố 1958 của
Phạm Văn Đồng về tuyên bố hải phận của TQ. 2/ Sự im lặng của miền Bắc VN
năm 1974 khi TQ xâm lăng các đảo HS. Sự im lặng này chính là sự đồng
thuận ám thị hành động của TQ là chánh đáng, TQ có chủ quyền ở HS và TS.
Ngoài ra còn có nhiều tuyên bố qua báo chí hay của các nhân vật lãnh
đạo cũng như nhiều hành vi ám thị đồng thuận khác.
Trong khi việc « kế thừa » di sản HS và TS của VNCH thì nhà nước CHXHCNVN đến hôm nay vẫn chưa thực hiện.
Về
vấn đề này, nhiều người cho rằng nhà nước CHXHCHVN là người thừa kế hợp
pháp VNCH. Tuy nhiên không thấy ai đưa ra các lý lẽ chứng minh.
Phía
CS miền Bắc gọi VNCH là « ngụy », tức là giả, không phải là một thực
thể chính trị. Người ta không thể kế thừa ở một cái gì đó không thật
(ngụy). Vả lại, nếu có tư cách « thừa kế », thì theo bộ luật về « kế
thừa » của VN hiện nay, nhà nước CHXHCNVN có thể bị truất quyền « kế
thừa » theo điều 643, khoản a và b.
Điều 643 của bộ luật
Dân sự 2005 (hoặc theo Pháp lệnh về kế thừa trước đó) Người không được
quyền hưởng di sản 1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b) Người vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
Ta thấy khi
cộng sản miền Bắc chiếm được miền Nam, một chính sách trừng phạt dân
miền Nam đã được áp dụng liên tục trong nhiều thập niên. Văn hóa miền
Nam bị xem là « văn hóa đồi trụy », đã bị xóa bỏ. Hầu hết nhân sự có
liên quan, xa hay gần, đến chính quyền VNCH đều bị trừng phạt như bắt đi
tù, bị truất hữu tài sản, nhà cửa, cả gia đình bị đuổi đi kinh tế mới.
Lính miền Nam bị khinh miệt gọi là « lính ngụy », chính quyền miền Nam
là « ngụy quyền », thậm chí dân miền Nam bị khinh bỉ gọi là « ngụy
dân ». Đến hôm nay, người dân miền Nam vẫn còn bị trừng phạt. Trên bình
diện đầu tư, miền Nam đóng góp trên ¾ của cải cho cả nước, nhưng về hạ
tầng cơ sở miền Nam không được đầu tư như miền Bắc. Thậm chí, trong vấn
đề giáo dục, miền Nam chỉ được đầu tư một phần tỉ lệ rất nhỏ so với miền
Bắc.
Nhà cầm quyền CSVN, liên tục từ nhiều thập niên, đã « ngược
đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng
danh dự, nhân phẩm » của người miền Nam. Tư cách gì nhà cầm quyền CSVN
lên tiếng đòi « kế thừa » di sản VNCH ngày hôm nay ?
Vì
thế ta không ngạc nhiên về các lý lẽ của tổ hợp luật sư Covington &
Burling ở Washington trong hồ sơ : “Những yêu sách đối kháng của Việt
Nam và Trung Quốc ở khu vực bãi ngầm Tư Chính và Thanh Long trong biển
Đông”. Các lý lẽ của họ hôm nay, theo đúng như lập luận trong hồ sơ : 1/
các đảo TS và HS quá nhỏ để có hiệu lực của đảo. 2/ Khẳng định quyền
chủ quyền của VN trong vùng 200 hải lý (theo đúng qui định ZEE và thềm
lục địa của luật Biển 1982).
Đối với họ chỉ có hai chọn lựa : VN mất ít hay mất nhiều. Họ chọn giải pháp « mất ít ».
Đối
với tổ hợp luật sư Covington & Burling ở Washington, là một tổ hợp
lừng danh thế giới về Công pháp quốc tế, đã nhận ra VN đã mất tố quyền
(forclusion – estoppel) tại HS và TS. Do đó không thể đứng trên căn bản
« VN có chủ quyền tại HS và TS » để lập hồ sơ mà phải dựa trên lập luận
« các đảo TS và các đảo nhỏ, không thể có ZEE ».
Như thế, đối với nhà cầm quyền VN hiện nay, HS và TS là đã mất.
Sự việc như vậy thì làm sao có thể kiện TQ ra một tòa án quốc tế ?
Nhưng
nhượng bộ này của VN cũng không xong. Chủ trương của TQ là « muốn
hết ». Chủ trương này, nếu HS và TS thuộc về họ, là khá phù hợp trên
quan điểm pháp lý. Thỏa mãn TQ, VN không phải « mất ít » hay « mất
nhiều » mà là « mất hết ».
Tôi đã viết một số bài, như bài
« Chủ quyền của VN tại Tư Chính, Vũng Mây », trong đó đả kích đích danh
một số cá nhân có chủ trương của nhà cầm quyền VN. Người ta chỉ có thể
bảo vệ được quyền lợi chính đáng của dân tộc chỉ khi nào lý lẽ của mình
dựa trên nền tảng đúng. Lý lẽ « các đảo TS là các đảo nhỏ do đó không
thể cho chúng vùng ZEE như lãnh thổ đất liền » là không thuyết phục trên
phương diện pháp lý. Đảo lớn hay nhỏ, theo luật, chúng có tình trạng
pháp lý như nhau, như lãnh thổ trên đất liền.
Tôi chống,
tôi đả kích nhưng người này và nhà nước CSVN, vì tôi thấy có giải pháp
khác. VN « được ít, được nhiều hay được tất cả » thay vì « mất ít, mất
nhiều hay mất tất cả ».
Làm thế nào thì tôi đã viết giới
thiệu trong bài trước. Cốt lõi của việc này là làm thế nào để kế thừa di
sản VNCH. Đây là một vấn đề thuộc về chính trị. Đảng CSVN có can đảm
chính trị hay không ? Có can đảm nhìn nhận VNCH như là một chế độ đã bảo
vệ chủ quyền của VN tại HS và TS hay không ? Có dám phục hồi danh dự và
bồi xứng đáng cho tập thể « ngụy quân, ngụy quyền » mà họ dã truy bức
và trả thù tàn độc trong quá khứ hay không ?
Anh làm sao
có thể kế thừa được di sản của một người mà trước đó anh đã đối xử tàn
tệ, dã man ? Không. Anh có thể ăn cướp di sản của người này nhưng anh
không thể « kế thừa » di sản của người này được.
Ngoài ra
còn thái độ của các học giả VN hiện nay. Tôi đã viết, các tài liệu chứng
minh chủ quyền của VN tại HS và TS hầu hết đều do các học giả VNCH viết
từ năm 1974. Tôi nhận thấy rằng, các bài viết chứng minh chủ quyền của
VN tại HS và TS của các học giả VN hôm nay đều không ghi tên các tác giả
VNCH. Việc này cho thấy, các học giả VN hiện nay cũng phủ nhận tính
chính thống của các học giả VNCH. Các anh cứ nói ông Trần Văn Hữu tuyên
bố thế này thế kia, chính quyền thực dân, chính phủ Bảo Đại bù nhìn,
chính nguyền ngụy hành sử chủ quyền ở HS và TS thế này thế nọ… Trong khi
điều nổi bật của chế độ CSVN là công hàm Phạm Văn Đồng 1958 cùng các
tuyên bố ngu xuẩn khác. Các anh viết như thế là đã xác nhận tính chính
thống của các chế độ đó nhưng các anh không có can đảm nói ra.
HS
và TS là thuộc chủ quyền của quốc gia VN, của dân tộc VN. Đó là điều
hiển nhiên. Nhà cầm quyền CSVN chỉ là giai đoạn, trong khi đất nước và
dân tộc là trường cửu. Nhà cầm quyền này không nhìn nhận di sản của VNCH
thì sẽ có chính quyền khác trong tương lai nhìn nhận nó. Việc này có
thể không còn xa lắm.