Lê Anh Hùng
Tháng 3/2005, vợ tôi (Lê Thị Phương Anh) bắt đầu đi làm nhân viên bán hàng tại một cửa hàng của Cty May Việt Tiến (nay là Tổng Cty May Việt Tiến) trên phố Chùa Bộc. Sau 3 ngày, Trọng - Trưởng phòng Marketing của Chi nhánh Cty May Việt Tiến tại Hà Nội - điều vợ tôi về làm nhân viên tại quầy hàng Việt Tiến ở Tràng Tiền Plaza, do Loan, sinh năm 1978, làm tổ trưởng.
Ba tuần sau, Loan bị Trọng điều đi làm tổ trưởng quầy hàng Việt Tiến tại siêu thị Metro (đường Phạm Văn Đồng). Vợ tôi được Trọng giao làm tổ trưởng Việt Tiến ở Tràng Tiền Plaza trước thái độ kèn cựa và ghen tị của Loan và Thuỷ (sinh năm 1985, nhân viên Việt Tiến tại Tràng Tiền Plaza). Tuy nhiên, sau đó Thuỷ lại cảm phục và kết nghĩa chị em với vợ tôi, còn Loan thì vẫn ngấm ngầm ghen tức với cô ấy.
Sau khi lên làm tổ trưởng, vợ tôi đã biến quầy hàng ở Tràng Tiền Plaza thành một cửa hàng điển hình của Cty Việt Tiến không chỉ ở Hà Nội mà còn trên phạm vi cả nước, với doanh số bán hàng cao nhất. Nhờ đó, cô ấy nhiều lần được Chi nhánh Hà Nội và Cty tuyên dương, khen thưởng.
Thời gian làm tổ trưởng ở Tràng Tiền Plaza, vợ tôi cũng được Trọng tin tưởng nhờ giúp một số việc thuộc lĩnh vực của Trọng như ký kết hợp đồng với các đại lý, giao hàng... do Trọng còn bận rộn buôn bán hàng cấm. Vì thế, đến tháng 8/2005, khi Cty Việt Tiến thay đổi nhân sự Chi nhánh Hà Nội (ông Xuân Giám đốc Chi nhánh vào Tp HCM đảm nhận nhiệm vụ khác, Trọng lên thay) thì vợ tôi được Trọng đề bạt lên thay vị trí của anh ta và được ông Nguyễn Đình Trường, TGĐ Việt Tiến chấp nhận. (Do việc này mà vợ tôi lại càng khiến Loan ghen tức.) Quyết định có hiệu lực từ ngày 1/9/2005. Tuy nhiên, từ cuối tháng 8/2005, vợ tôi đã đảm trách vai trò của Trọng. Ông NĐ Trường cũng nhận vợ tôi làm con nuôi trong thời gian này.
Nhờ thành tích vô cùng ấn tượng trong một thời gian ngắn ngủi làm Trưởng phòng Marketing Chi nhánh Hà Nội mà ông NĐ Trường quyết định bổ nhiệm vợ tôi làm Giám đốc Chinh nhánh Hà Nội của Cty May Việt Tiến. Quyết định có hiệu lực từ ngày 1/10/2005. Do việc này ông NĐ Trường quyết định không đúng quy trình nên ông bị Lê Viết Toà (tên thật là Lê Văn Toại), Phó TGĐ Thường trực Cty May Việt Tiến và là đệ tử ruột của ông Lê Quốc Ân (Chủ tịch HĐQT Vinatex), phản đối quyết liệt. Sau khi chứng kiến cuộc “sát hạch” đối với vợ tôi ngày 3/10/2005 do Lê Văn Toại cùng bộ sậu tiến hành, ông Lê Quốc Ân lại ép ông Trường để nhận vợ tôi làm con nuôi và đưa về làm Trưởng phòng Marketing của Vinatex. Tiếp theo, sau cuộc ra mắt của vợ tôi tại Vinatex vào ngày 13/10/2005, ông Hoàng Trung Hải, Bộ trưởng Công nghiệp, lại ép ông Trường và ông Ân để nhận vợ tôi làm con nuôi. Trong thời gian đó, Lê Văn Toại, với sự xúc xiểm của Loan (bồ của anh ta), đã nẩy sinh mâu thuẫn với vợ tôi. Anh ta bị mất chức nên thuê xã hội đen trả thù vợ tôi, khiến vợ chồng tôi phải bỏ chạy vào Đông Hà, Quảng Trị (quê vợ tôi) để lánh nạn vào ngày 2/11/2005.
Ông Hoàng Trung Hải nhờ ông Lê Hồng Anh và ông Nguyễn Khánh Toàn (Bộ trưởng và Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an) để bắt Lê Văn Toại. Bố mẹ Lê Văn Toại (vốn là trùm thế giới ngầm ở Sài Gòn) đã dùng tiền để gõ mọi cánh cửa và chạy đến tận TBT Nông Đức Mạnh.
Cuối tháng 11/2005, vợ tôi tình cờ gặp ông Nguyễn Tấn Dũng, Phó TT Thường trực, đang vào Quảng Trị để chỉ đạo phòng chống bão lụt, tại cuộc tiếp đón do ông Vũ Trọng Kim, Phó Ban Dân vận TW (nguyên Bí thư TW Quảng Trị), tổ chức. Biết vợ tôi là Trưởng phòng Marketing của Vinatex và là con nuôi của Bộ trưởng CN Hoàng Trung Hải nên ông NT Dũng lại đòi nhận vợ tôi làm con nuôi. Lúc này, ông Hải cũng cho ông Dũng biết nguyên nhân vợ chồng tôi phải chạy trốn vào Đông Hà. Tiếp theo, ông NT Dũng đưa vợ tôi từ Đông Hà vào Huế đón đoàn của các ông Nông Đức Mạnh, Đỗ Mười và Phan Văn Khải vào thăm Huế và Quảng Trị (hình như để bàn chuyện cơ mật trước thềm Đại hội X của Đảng). Đầu tháng 12/2005, ông NĐ Mạnh lại nhận vợ tôi làm con nuôi. Sau đó, ông Mạnh đã trả lại số tiền hối lộ mà ông nhận từ gia đình Lê Văn Toại để giúp vợ chồng tôi.
Trong thời gian vợ tôi làm việc tại Cty May Việt Tiến, Trọng đã nảy sinh tình cảm và dần dần si mê cô ấy. Là đệ tử ruột trong băng đảng ma tuý của ông HT Hải nên anh ta nắm được bằng chứng phạm tội của ông Hải. Dần dà, anh ta không chế, ép buộc ông Hải phải làm sao để chia lìa vợ chồng tôi, tạo điều kiện cho anh ta chiếm đoạt vợ tôi. Thành ra, mặc dù đã nhận làm bố nuôi vợ tôi trong thời gian vợ chồng tôi đang ở Hà Nội nhưng ông Hải vẫn không chịu gặp tôi. Sau khi chúng tôi chạy vào Đông Hà lánh nạn và vợ tôi trở thành con nuôi của ông NT Dũng và ông NĐ Mạnh, ông Hải lại tìm mọi cách để khiến tôi nghi ngờ vợ, qua đó hòng chia lìa vợ chồng tôi: kiếm cớ ngăn cản ông Mạnh, ông Dũng vào Đông Hà thăm vợ chồng tôi; không chu cấp cho vợ chồng tôi mặc dù vẫn nói với 2 ông kia là đã lo lắng đầy đủ cho chúng tôi, v.v.
Theo kế hoạch, ngày 22/3/2007, ông NĐ Mạnh và ông NT Dũng sẽ đích thân vào Đông Hà đón vợ chồng tôi ra Hà Nội, và lần đầu tiên tôi sẽ được diện kiến họ. Biết tin đó, Trọng liền gửi tối hậu thư cho ông HT Hải là nếu điều đó xẩy ra (đồng nghĩa với việc anh ta sẽ không bao giờ còn mơ đến việc có thể chia rẽ vợ chồng tôi và qua đó chiếm đoạt vợ tôi được nữa), anh ta sẽ tung chứng cứ phạm tội của ông Hải lên mạng. Ông Hải đã đe doạ và ép buộc vợ tôi ôm con bỏ đi, và tìm cách ngăn không cho ông Mạnh và ông Dũng vào Đông Hà đón vợ chồng tôi. Tuy nhiên, sau đó vợ tôi đã kể hết với tôi về bộ mặt thật của ông HT Hải và Trọng, cũng như chuyện cô ấy từng tham gia vào băng đảng ma tuý của ông Hải như thế nào. Ông Hải từng thú nhận với vợ tôi chuyện ông ta sát hại tay trợ lý người Quy Nhơn, Bình Định để bịt đầu mối tội ác. Tôi khuyên vợ tôi kể cho ông Mạnh và ông Dũng biết hết sự thật về ông Hải. Tuy nhiên, diễn biến sau đó lại cho thấy hoá ra cả ông Dũng và ông Mạnh đều đã bị ông Hải “trói” theo những cách thức khác nhau. Ông Dũng từng hãm hiếp một cô trinh nữ do Trọng cung cấp và bị ông Hải bố trí quay phim toàn bộ hoạt cảnh. Sau đó, để bịt đầu mối tội ác của mình, ông Dũng đã đồng ý để cho ông Hải và đàn em thủ tiêu cô gái kia. Còn ông Mạnh thì từng buôn lậu vũ khí với ông Hải. Lúc này, ông Hải chuyển toàn bộ chứng cứ phạm tội của ông Mạnh và ông Dũng cho Trọng để anh ta đe doạ và ép buộc hai ông này phải tiếp tục âm mưu lừa dối vợ chồng tôi.
Đến cuối tháng 6/2007, khi biết không thể chia rẽ được vợ chồng tôi, đồng thời lại bị công an truy lùng ráo riết, nên Trọng sang Pháp sinh sống. Anh ta đòi ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải phải cấp cho anh ta 5 tỷ USD nếu không anh ta sẽ tố cáo họ. Ba ông này nhờ vợ tôi xin Trọng “bớt” cho một ít, song Trọng không đồng ý mà nói là cho vợ tôi 2 tỷ trong số 5 tỷ USD đó.
Vợ chồng tôi dự định là tháng 10/2007 sẽ ra nước ngoài theo sự sắp xếp của Trọng. Tuy nhiên, sau đó 3 ông kia và Trọng lại tiếp tục lừa dối vợ chồng tôi. Trọng tiếp tục lừa vì anh ta vẫn chưa thôi ý định chiếm đoạt vợ tôi (trong khi chúng tôi lại không hề nghi ngờ gì anh ta cả), còn ba ông kia muốn tiếp tục lừa tôi vì sợ tôi về sau tố cáo, hoặc viết câu chuyện thành sách. Do ba ông kia vẫn tìm mọi cách chia rẽ vợ chồng tôi và ngăn cản việc tôi ra nước ngoài nên đến tối 8/11/2007, tôi quyết định để cho vợ ra Hà Nội rồi ra nước ngoài trước cùng Trọng và Thuỷ (người lúc này đã trở thành vợ của Trọng và có với anh ta một đứa con gái). Trọng hứa với vợ chồng tôi là sẽ tìm cách đưa tôi ra nước ngoài sau. Ngày 12/11/2007, tôi cũng bỏ trốn khỏi Đông Hà vì 3 ông kia bắt đầu cho người truy lùng tôi.
Trước khi vợ tôi sang Pháp vào ngày 16/11/2007, ông HT Hải đã bắt cóc con gái Trọng (lúc đó mới khoảng 7-8 tháng tuổi), vì biết Trọng rất yêu quý con gái, và giam giữ tại một ngôi nhà nằm ở một khu vực hẻo lánh thuộc tỉnh Quảng Ninh. Ông ta đánh hơi thấy Trọng lừa mình (tay Trọng này rất ma lanh, anh ta vừa lừa ba ông kia vừa lừa vợ chồng tôi). Vì thế, Trọng và Thuỷ bị kẹt lại ở Việt Nam, vợ tôi và con gái (Lê Thanh Mai, sinh ngày 2/11/2006) sang Pháp trước cùng với 1 bà giúp việc người Nghệ An. Bạn của Trọng (tên là Trinh) đón vợ con tôi ở Paris.
Thời gian này, vợ tôi lại bị chứng chảy máu não, và bệnh tình ngày càng trở nên nguy kịch. Ngày 27/11/2007, vợ tôi phẫu thuật chứng chảy máu não ở Mỹ theo sự thu xếp của ông HT Hải và Trọng, sau đó mẹ con cô ấy trở lại London (Anh). Giữa tháng 12/2007, Trọng bị đàn em của ông Hải bắt khi anh ta tìm cách tiếp cận ngôi nhà mà ông Hải đang giam giữ con gái anh ta.
Chờ mãi không thấy tin tức gì từ Trọng, cuối tháng 1/2008, vợ tôi tìm cách về lại Việt Nam (đầu tháng 12/2007, sau khi phẫu thuật xong một thời gian ngắn, vì lo lắng cho tôi nên vợ tôi cũng tìm cách trốn về Việt Nam, nhưng sau đó bệnh tái phát nên lại phải sang London để điều trị tiếp). Ngày 30/1/2008, tôi cũng từ nơi ẩn náu ở Nha Trang về đến Đông Hà để đoàn tụ với vợ con.
Tôi dự định là ra Tết Mậu Tý 2008 sẽ ra Hà Nội để tố cáo tội ác của ông NĐ Mạnh, ông NT Dũng và ông HT Hải. Tuy nhiên, sáng 4/1 AL (10/2/2008), Trọng đột nhiên liên lạc với vợ tôi. Ngày 4/2/2008, con gái Trọng đã chết trên tay anh ta trong sự giam cầm của ông Hải. Đàn em của ông Hải cho phép Trọng chôn con gái mình. Anh ta nhân đó đánh nhau với hai tên vệ sỹ, cướp được súng và bắn chết hai tên này rồi chạy trốn. Anh ta đề nghị tôi hợp tác với anh ta, đòi 3 ông kia trả cho một số tiền lớn (2 tỷ USD), chúng tôi sẽ nhận một nửa và ra nước ngoài trước.
Tuy nhiên, ngày 13/3/2008, sau khi nhận được tiền từ ông Hải, Trọng đã ra nước ngoài, lộ rõ bộ mặt thật của mình (lừa dối chúng tôi bấy lâu trong khi chúng tôi vẫn cả tin, không hay biết). Lúc này, vợ tôi mới thú thật với tôi về tội lỗi của cô ấy: một vụ án mạng mà cô ấy là người thực hiện dưới sự đe doạ và ép buộc của Trọng, toàn bộ vụ việc bị Trọng bố trí máy quay phim ghi lại. Trước khi ra nước ngoài, Trọng đã giao các chứng cứ phạm tội của vợ tôi cho ông Hải, hòng khống chế và đe doạ cô ấy.
Tôi vẫn cố thuyết phục vợ tội cáo tội ác của ông NĐ Mạnh, ông NT Dũng và ông HT Hải, vừa để chuộc lại lỗi lầm cho vợ, vừa để vạch mặt tội ác của họ, và vừa để buộc họ phải chịu trách nhiệm trước thảm cảnh mà họ đã gây ra cho chúng tôi.
Sau khi đã thử dùng bài “rung cây doạ khỉ”, nhận ra sự lo sợ của họ cũng như tâm địa độc ác của họ qua việc cứ cố tình lừa dối chúng tôi hết lần này đến lần khác mặc dù tôi đã cho họ nhiều cơ hội chuộc lỗi, ngày 21/4/2008, tôi bắt đầu gửi thư tố cáo tội ác của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải đến các cơ quan hữu quan ở Việt Nam và nhiều địa chỉ email khác qua mạng Internet.
÷
Giữa tháng 5/2008, tôi bán nhà ở Hà Nội. Ngày 20/5/2008, tôi chuyển vào Đông Hà sinh sống. Đầu tháng 6/2008, tôi mua nhà ở hẻm 211, Lý Thường Kiệt, Đông Hà (giá 200 triệu).Lúc này, cô Nguyễn Thị Hương, sinh năm 1973, người trước đây thường cho vợ tôi vay góp rủ vợ tôi cùng cho vay trả góp. Vợ tôi rất vui và hạnh phúc, bệnh tật đỡ dần. Cô ấy còn tranh thủ mua gom rượu ngoại bán cho các nhà hàng. Thỉnh thoảng, vợ tôi nhờ ông Ngô Quận, Đại tá, Phó Giám đốc Công an Quảng Trị, giúp đỡ.
Ngày 5/8/2008, Công an Quảng Trị mời tôi lên làm việc (người chủ trì buổi làm việc với tôi là vị Trung tá Cảnh sát tên Nguyên, quê ở Hưng Nguyên, Nghệ An). Tôi đã trực tiếp ký vào từng trang của thư tố cáo do họ in ra sẵn. Trước đó, có hai viên sỹ quan công an – một người là Nguyễn Minh Đông, hiện nay là thượng uý, Phó CA P5, Đông Hà – đã điều tra sơ qua về vợ chồng tôi. Họ còn đi theo viên CSKV Lê Phước Giải đến tận nhà tôi để “tìm hiểu” xem tôi có “bị” gì không.
Sau đó, ông Nguyễn Minh Triết bí mật ủng hộ chúng tôi tố cáo tiếp. Từ giữa tháng 8/2008, ông Triết đã chỉ đạo (qua ông Ngô Quận, Đại tá, PGĐ Công an Quảng Trị) tạo điều kiện cho vợ chồng tôi buôn rượu lậu từ Lào về Việt Nam qua cửa khẩu Lao Bảo. Người hỗ trợ vợ tôi buôn rượu là chị Nguyễn Thị Hương, sinh năm 1973, cũng là người mà trước đấy vợ tôi cho vay trả góp cùng. Vì thời gian này Công an đang ngấm ngầm theo dõi vợ chồng tôi nên để cho phía Công an thấy là chúng tôi không có tiền (đồng nghĩa với việc không có ai đứng sau lưng chúng tôi cả), ông Ngô Quận đã chỉ đạo để vợ chồng tôi gửi tiền bạc của mình vào các tài khoản của Hương. (Ý đồ ban đầu của ông Triết là muốn cho chúng tôi có nhiều tiền thật nhanh để người ta tin vào câu chuyện; tuy nhiên, sau khi ba ông Mạnh-Dũng-Hải “tố” là có người đứng đằng sau lưng chúng tôi, ông Triết lại để chúng tôi rơi vào cảnh khốn khó cho người ta khỏi nghi ngờ ông.) Ngoài ông Ngô Quận, phía Công an Quảng Trị còn có hai lãnh đạo nữa tham gia vào âm mưu của ông Triết là ông Ngô Văn Tiếu, Đại tá, Giám đốc Công an tỉnh (nay là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh CSCĐ) và ông Nguyễn Thanh Thắng, Đại tá, PGĐ CA tỉnh.
Đầu năm 2009, Công an bắt đầu điều tra bí mật. Ban Chuyên án do Bộ Chính trị chỉ định, báo cáo trực tiếp với Bộ Chính trị, chứ không thông qua những trình tự pháp lý thông thường. Ông Lê Hồng Anh, người có dính líu trong phần đầu câu chuyện và đã dũng cảm thừa nhận sai phạm của mình, được Bộ Chính trị giao phụ trách Ban Chuyên án.
Đến ngày 12/3/2009, quá bức xúc vì theo âm mưu của ông NM Triết mà chúng tôi phải bán nhà bán cửa và sống tạm bợ ở nhà bà ngoại vợ (để Bộ Chính trị và công an không nghi ngờ ông ta), đồng thời nhận được sự “khích lệ” từ một bức thư mà Ban Chuyên án gửi cho tôi vào ngày 5/3/2009 (Nếu bức thư này được tố cáo thêm lần nữa thì đất nước này hoàn toàn sụp đổ, không thể cứu vãn được nữa…), cũng như từ câu nói trước đó của ông HT Hải với ông Ngô Quận (Bây giờ mà nó tung thư tố cáo lên lần nữa thì gí súng vào đầu tự tử do rồi), trong khi vụ việc tiến triển rất chậm chạp (ông Triết coi như đã không thực hiện đúng cam kết với chúng tôi), nên tôi quyết định gửi thư tố cáo qua mạng lần thứ 2 đến các cơ quan hữu quan cùng hàng loạt địa chỉ email khác.
Trái với kỳ vọng của tôi, lần gửi thư tố cáo này không có tác dụng đáng kể, câu chuyện quá khủng khiếp và ly kỳ nên ít người dám tin. Bộ Chính trị quyết định giải tán Ban Chuyên án cũ (do kém năng lực) và thành lập một Ban Chuyên án mới.
Đến cuối tháng 6, đầu tháng 7/2009, Ban Chuyên án đã kết thúc điều tra. Kết quả cho thấy đúng như những gì chúng tôi tố cáo. Ông Triết cũng phạm tội, dù nhẹ hơn 3 ông kia. Các cuộc đấu đá tranh giành nội bộ diễn ra để thế chỗ ông Mạnh, ông Dũng.
Thấy vụ việc lâm vào bế tắc do sự đấu đá giằng co của những người trong Bộ Chính trị, cuối tháng 8/2009, tôi lại gửi thư tố cáo đến các cơ quan hữu quan 3 lần liên tiếp (lần thứ 3, 4 & 5: 20/8, 27/8 và 31/8/2009). Lập tức, ông Triết chỉ đạo ông Quận lấy toàn bộ số tiền của chúng tôi, khi đó đang gửi ở tài khoản của chị Nguyễn Thị Hương, về các tài khoản của mình, hòng dễ bề khống chế chúng tôi.
Đầu tháng 9/2009, một số ĐSQ nước ngoài ở Hà Nội vào Quảng Trị gặp vợ tôi để tìm hiểu thực hư vụ việc (Mỹ, Trung Quốc, Anh…). Tuy nhiên, theo chỉ đạo của ông NM Triết, vợ tôi nói với họ là trong câu chuyện chỉ có một phần sự thật.
Ban Chuyên án đòi đưa vụ việc ra Ban Chấp hành Trung ương (họ cũng muốn ‘vòi’ tiền của Nhà nước nữa). Nếu đưa ra công khai trong BCHTW thì rất nhiều người bị mất chức, kể cả ông Triết. Số tiền đó chắc chắn là phải tương đương với số mà người ta định “đền bù” cho vợ chồng tôi, nhưng ngân quỹ của Đảng đã bị ông Nông Đức Mạnh và một số người nữa (trong đó có ông Nguyễn Phú Trọng) vơ vét sạch. Vì thế, đến tháng 10/2009, ông Triết đã mua số chứng cứ này từ Ban Chuyên án. Vụ việc coi như bị ém nhẹm, thậm chí còn không được xử lý trong nội bộ Bộ Chính trị.
Ông NM Triết ủng hộ chúng tôi tố cáo tiếp để sao cho các phe phái khác nhau buộc phải thoả hiệp và Bộ Chính trị phải giao chức vụ của ông Mạnh cho ông ta.
Đến ngày 26/11/2009, ông NM Triết được Bộ Chính trị chính thức trao cho chức vụ cao nhất (ông NP Trọng vị trí thứ hai, và ông TT Sang nắm giữ vị trí thứ 3). Tuy nhiên, sau đấy người ta lại không thống nhất được phương án xử lý đối với tôi. Trong khi câu chuyện của tôi thì đã um ra (cho đến ngày 23/12/2009, tôi tung lên mạng 20 lần, đến hàng ngàn địa chỉ email trong và ngoài nước). Người ta sợ cho tôi tiền thì tôi sẽ ra nước ngoài rồi tố cáo tiếp. Ông Triết quá cầu toàn, thiếu quyết đoán, nên dần dần để vụ việc vượt ra khỏi tầm kiểm soát của mình, và của cả Bộ Chính trị.
Tôi tiếp tục gửi thư tố cáo qua mạng Internet, cho đến lần thứ 20 là vào ngày 23/12/2009. Tình hình ở Hà Nội hết sức rối ren, Trung Quốc đe doạ sẽ tấn công Trường Sa nếu chế độ này sụp đổ. Nhưng Bộ Chính trị vẫn không cho bắt tôi, vì tôi tố cáo đúng sự thật và vì sau lưng tôi có ông Triết cùng một số người nữa ủng hộ.
Đến ngày 25/12/2009, một nhóm sỹ quan an ninh cao cấp của Bộ Công an đã chỉ đạo bắt “bắt quả tang” tôi ngoài tiệm Internet với tội danh ban đầu là “tuyên truyền chống phá Nhà nước”, đặt Bộ Chính trị vào thế đã rồi.
Ông NM Triết, lúc này lại quay sang liên minh với các ông NĐ Mạnh, NT Dũng và HT Hải, trước sự non nớt, thiếu hiểu biết của vợ tôi, đã đe doạ và ép buộc cô ấy phải khai với công an là tôi bị bệnh “tâm thần hoang tưởng” (do họ đang nắm trong tay bằng chứng phạm tội của vợ tôi). Về phía tôi, vì không có bằng chứng gì trong tay, lại nghĩ là mình cần phải dành đường lùi cho những người trong cuộc, nhất là khi mà họ đã nhiều lần hứa hẹn là sẽ cải cách thể chế trước sự thối nát khủng khiếp của hệ thống, nên cũng đành chấp nhận “vị thế” của một “bệnh nhân tâm thần”.
Ngày 4/5/2010, Công an Quảng Trị đưa tôi vào Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng để “điều trị bắt buộc” và đến ngày 24/8/2010, tôi được thả tự do.
Trong thời gian tôi bị bắt và sau khi mới được thả, ông NM Triết cam kết là hết năm 2010 sẽ trả lại tiền cho chúng tôi. Tuy nhiên, hết năm 2010, rồi đến Tết 2011, ông ta vẫn không chịu trả cho vợ chồng tôi một đồng nào để sinh sống, khiến chúng tôi rơi vào cảnh cùng cực. Trước tình hình đó, tôi dự định là sáng tháng 2 AL năm Tân Mão (2011) sẽ tiếp tục gửi thư tố cáo qua mạng đến các cơ quan hữu quan, ngoài THƯ TỐ CÁO I đối với 3 ông NĐ Mạnh, NT Dũng, HT Hải là THƯ TỐ CÁO II đối với ông NM Triết. Tài liệu quan trọng kèm theo là nhật ký của tôi kể từ khi tôi chuyển vào Đông Hà tháng 5/2008 cho đến khi tôi bị bắt rồi được thả ra vào ngày 24/8/2010 và Bản Cam Đoan của vợ tôi, thừa nhận vai trò chính của cô ấy trong câu chuyện và xác nhận tôi là người hoàn toàn bình thường.
Dường như biết được việc tôi chuẩn bị gửi thư tố cáo nên nhóm sỹ quan an ninh cao cấp đứng đằng sau vụ bắt giữ tôi vào ngày 25/12/2009 đã bắn tín hiệu đến Bộ Chính trị là nếu tôi tiếp tục tố cáo thì họ sẽ ủng hộ tôi. BCT quyết định buộc ông NM Triết phải làm “con dê tế thần” – nghĩa là ông Triết thừa nhận việc đứng đằng sau vụ tôi “vu khống các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước”, và coi như ba ông kia (ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Hoàng Trung Hải) không phạm tội gì cả. Dĩ nhiên, để nhóm sỹ quan công an này đồng ý “xử êm” vụ việc, những người liên quan sẽ buộc phải chi một số tiền lớn để mua sự im lặng của họ (hoặc Bộ Chính trị phải chi từ ngân quỹ bí mật của Đảng). Điều đó cũng cho thấy mục đích “cao cả” của việc nhóm này chỉ đạo bắt giữ tôi vào ngày 25/12/2009.
Sáng 3/3/2011, ông NM Triết gọi điện trực tiếp vào số máy của vợ tôi, thông báo là ngày 10/3/2011, người ta sẽ mời vợ tôi lên trụ sở Công an tỉnh Quảng Trị để làm việc. Ông Triết nói, trước mắt ông sẽ trả lại số tiền của vợ chồng tôi, còn số tiền mà ông hứa cho chúng tôi thì “cho chú xin hoãn”. Ông cũng nói là chúng tôi sẽ phải viết cam kết là không tố cáo nữa, nếu tố cáo thì sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Sau đó, vợ tôi làm việc với một số sỹ quan công an (từ Hà Nội vào và ở Quảng Trị) về số tiền của chúng tôi qua sổ sách của Nguyễn Thị Hương. Tuy nhiên, do ông NM Triết cứ lần lữa việc chuyển trả tiền cho chúng tôi, đồng thời lại nhận thấy Bộ Chính trị còn tiếp tục đấu đá nhau và biết được thái độ lo sợ của những người trong cuộc, nên ngày 21/3/2011, tôi lại gửi thư tố cáo đến tất cả các cơ quan hữu quan trong nước cùng hàng ngàn địa chỉ email khác (nếu tính từ lần đầu tiên ngày 21/4/2008 thì đây là lần thứ 21).
Cho đến ngày 27/7/2011, tôi gửi thư tố cáo qua mạng thêm 36 lần nữa. Các phe phái vẫn cứ đấu đá nhau, nhưng không hề có dấu hiệu nào cho thấy người ta sẽ giải quyết vụ việc. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá XIII, ông NT Dũng vẫn tiếp được bầu làm Thủ tướng và ông HT Hải lại tiếp tục là Phó TT, sát cánh cùng ngài TT để “lãnh đạo” đất nước.
Trong thời gian đó, nhiều đoàn sỹ quan cao cấp của Bộ Công an và từ một số tỉnh thành khác đã đến Quảng Trị gặp vợ tôi tìm hiểu về vụ việc. Họ đã động viên chúng tôi cả vật chất lẫn tinh thần. Qua tinh thần của các cuộc gặp đó, tôi biết là người ta vẫn đổ hết tội lên đầu ông NM Triết, và coi như ông NĐ Mạnh, ông NT Dũng, ông HT Hải không phạm tội gì. (Thật nực cười, chẳng lẽ ông NM Triết lại ngu dại đến mức ủng hộ chúng tôi “vu khống” người khác?!)
Đến cuối tháng 10/2011, sau khi tôi đã công bố hai cuốn sách học thuật do tôi dịch, đăng một bài viết mới (Chính phủ và chính sách) trên một số trang mạng uy tín trong và ngoài nước, và phổ biến bức thư ngỏ gửi ĐBQH – nhà sử học Dương Trung Quốc, người ta bắt đầu có những động thái nhằm vào những kẻ mà tôi tố cáo. Một số đoàn sỹ quan công an từ Hà Nội vào Đông Hà gặp vợ tôi để điều tra về tội ác của các ông NĐ Mạnh, NT Dũng và HT Hải cũng như ông NM Triết. Tuy nhiên, các nhóm sỹ quan công an này đều chỉ lấy lời khai của vợ tôi để tìm cách “làm tiền” những những kẻ bị chúng tôi tố cáo.
Ngày 25/10/2011, vợ tôi bay ra Hà Nội và sáng hôm sau làm việc với một đoàn 10 người gồm 8 sỹ quan công an và hai người nước ngoài tại khách sạn Daewoo.
Từ ngày 8/11 đến ngày 14/11/2011, vợ tôi làm việc với đoàn ngoại giao của ĐSQ Mỹ (và có thể là cả của ĐSQ Na Uy), trong đó có việc đối chất với ông NM Triết và ông Ngô Quận. Tuy nhiên sau đó tôi phát hiện ra là chính đoàn ngoại giao nước ngoài này lại tìm cách lừa dối chúng tôi (có thể là họ bị mua chuộc, có thể là đó là một phần trong cuộc mặc cả giữa họ và giới lãnh đạo chóp bu của Việt Nam). Vì thế, ngày 16/11/2011, tôi đã đến Phòng Thanh tra, Công an Quảng Trị, gửi đơn tố cáo trực tiếp, kèm theo Bản Cam Đoan của vợ tôi. (Tôi không còn tin vào một sự dàn xếp có lợi cho đất nước, cho những người trong cuộc và cho chúng tôi nữa.) Người tiếp nhận đơn thư của tôi là Thượng tá Đoàn Thị Mỹ Hạnh, Phó Phòng Thanh tra, và thượng uý Nguyễn Minh Chính, cán bộ Phòng Thanh tra.
Ngày 20/11/2011, ông Hoàng Trung Hải xuất hiện trong lễ thông xe hầm đường bộ Thủ Thiêm, với sự có mặt của ông Trương Tấn Sang, Lê Hồng Anh, Phan Văn Khải, Trương Vĩnh Trọng, Lê Thanh Hải (ông Hải ngồi giữa ông LHA và ông TVT). VTV còn phát cảnh ông Hải đọc phát biểu dài đến mấy phút (!). Đây là dấu hiệu cho thấy ông TT Sang dường như đã bắt tay thoả hiệp với liên minh ma quỷ Nguyễn Phú Trọng – Nguyễn Tấn Dũng – Nguyễn Sinh Hùng – Lê Hồng Anh – Hoàng Trung Hải.
Ngày 6/12/2011, tôi tiếp tục gửi thư tố cáo, kèm theo phần nhật ký bổ sung cho đến ngày 17/11/2011, đến các cơ quan hữu quan qua mạng Internet và hàng ngàn địa chỉ email khác.
Vụ việc lại um ra nên Bộ Chính trị, trước sức ép của dư luận và qua đó là của một số vị uỷ viên BCT không dính dáng đến vụ việc như ông PQ Thanh, ông PQ Nghị, ông NX Phúc, buộc phải quyết định điều tra về vụ việc. Họ không thành lập Ban Chuyên án (chắc là vì sợ không đủ tiền để mua sự im lặng của các sỹ quan điều tra một khi họ tìm ra các chứng cứ, điều vốn không quá khó đối với họ) mà giao cho ông Trần Đại Quang trực tiếp điều tra bằng cách thẩm vấn vợ tôi xem lời khai của cô ấy có khớp với câu chuyện do tôi thuật lại trong thư tố cáo hay không. Ông TĐ Quang gặp vợ tôi rất nhiều lần, vừa để kiểm chứng lời khai của vợ tôi có khớp lần trước với lần sau hay không, vừa để “lung lạc” niềm tin của tôi, khiến tôi nghi ngờ vợ mà không tố cáo nữa. Họ cũng tìm cách đẩy chúng tôi dần dần rơi vào cảnh cùng cực để tôi không thể tiếp tục việc tố cáo.
Chiều tối ngày 9/2/2012, ông TĐ Quang, ông PQ Nghị và một số người khác họp bí mật với ông TT Sang và ông NX Phúc (hai người lúc này đang đi thăm Lào) tại một khách sạn ở Huế, dường như là để bàn chuyện thay đổi chế độ.
Khoảng ngày 23-25/2/2012, trong thời gian tôi ra Hà Nội theo “kế hoạch” của họ, vợ tôi đã gặp và làm việc với một đoàn người Mỹ ở Đà Nẵng, gồm 7 người, do ông TT Sang và TĐ Quang đón, ngoài ra còn có ông PQ Thanh, PQ Nghị và NX Phúc.
Tối 7/3/2012, ông NT Dũng đột nhiên gọi điện thoại cho vợ tôi. (Bình thường tôi gọi từ số 01629132914 đến số mới của vợ tôi là 01274162860, và vợ tôi vẫn cố ý dặn tôi liên lạc qua số đó thôi – tuy không còn bí mật nhưng ít người biết hơn. Nhưng trưa hôm 6/3, thấy họ cứ lắm trò quá nên tôi cũng mệt mỏi, thành ra khi gọi vào số trên của vợ không được, tôi lại gọi vào số chính thức mấy năm qua của vợ - 0942797646 - rồi hai vợ chồng trao đổi tự nhiên về câu chuyện. Chắc chắn là người của phía ông Dũng - hay phe cánh của ông ta - đã nghe lén được, và họ biết được là lần này phía Mỹ đã nhảy vào hậu thuẫn cho một nhóm uỷ viên BCT để thay đổi chế độ và người ta chỉ còn chờ thời điểm ra tay nữa thôi.)
Sáng 8/3/2012, vợ tôi bay ra Hà Nội, ở tại nhà khách Bộ Công an, để gặp ông NT Dũng, và sau đó gặp ông NĐ Mạnh và ông HT Hải.
Từ 9/3 đến 19/3/2012, tôi phát hiện dường như vợ tôi bị người ta khống chế nên ngày 20/3 tôi gửi thư tố cáo qua mạng tới các cơ quan hữu quan, kèm theo phần nhật ký bổ sung cho đến ngày 19/3/2012 (lần thứ tố cáo thứ 60).
Ngày 23/3/2012, tôi đến trụ sở Công an Quảng Trị và làm việc với trung tá Nguyễn Quang Trung, Thanh tra Công an tỉnh, về đơn thư tố cáo.
Ngày 3/4/2012, tôi tiếp tục gửi thư tố cáo với phần Nhật ký Bổ sung III (lần thứ 61). Trong phần nhật ký này, tôi nêu rõ nghi vấn về việc vợ tôi bị đe doạ và khống chế từ ngày 9/3/2012, đồng thời thuật lại chi tiết hành vi phạm tội của vợ. Ngoài ra, tôi còn gửi kèm theo ảnh của một cô gái – tên là Nhung – cùng nằm trong băng đảng ma tuý của ông HT Hải với vợ tôi, đã bị ông Hải và đàn em thủ tiêu để bịt đầu mối.
7h30 sáng, ngày 11/4/2012, tôi mang tờ biểu ngữ “HÃY TRẢ LỜI ĐƠN TỐ CÁO CỦA TÔI” đến đứng trước cổng trụ sở Công an Quảng Trị (sau hai lần trước đấy đến đề nghị làm việc nhưng không được tiếp). Sau đó tôi làm việc với trung tá Nguyễn Quang Trung, Thanh tra CA tỉnh về đơn tố cáo của mình.
Ngày 15/4/2012, tôi gửi thư tố cáo (lần thứ 62) kèm theo phần Nhật ký Bổ sung IV. Trong phần nhật ký mới này, tôi khẳng định là vợ tôi đã bị đe doạ, khống chế và cung cấp thông tin sai lạc cho tôi từ ngày 9/3-19/3/2012. Tôi cũng đề cập đến một khả năng rất lớn là ông HT Hải, với chứng cứ phạm tội của ông NĐ Mạnh, NT Dũng và NM Triết trong tay, đã lật bài ngửa với Bộ Chính trị và khống chế bộ máy lãnh đạo cấp cao. Số phận của hệ thống chính trị này, cũng như vận mệnh của một dân tộc bốn ngàn năm văn hiến, thực sự đang nằm trong tay ông ta và băng đảng của ông ta.
7h30 sáng 16/4/2012, tôi mang tờ biểu ngữ “HÃY TRẢ LỜI ĐƠN TỐ CÁO CỦA TÔI” đến đứng trước cổng trụ sở Công an Quảng Trị và nhờ đó mới có cơ hội làm việc với trung tá Nguyễn Quang Trung, Thanh tra CA tỉnh về đơn tố cáo của mình.
Sáng 19/4, tôi lại mang tờ biểu ngữ trên đến trụ sở Công an Quảng Trị đứng “biểu tình” để đòi họ thúc đẩy việc điều tra. Lần này, tôi đợi cả buổi nhưng không ai ra làm việc với tôi cả.
Ngày 22/4/2012, tôi gửi thư tố cáo qua mạng đến các cơ quan hữu quan ở Việt Nam cùng hàng loạt địa chỉ email khác (lần thứ 63).
7h30 sáng 23/4/2012, tôi đến trụ sở Công an tỉnh Quảng Trị. Tôi đứng ngoài cổng và giơ túi tài liệu clear-bag, trong đó có tờ biểu ngữ “HÃY TRẢ LỜI ĐƠN TỐ CÁO CỦA TÔI” nằm ở phía ngoài, lên trước ngực. Mấy tay bảo vệ vội chạy ra đề nghị tôi vào phía trong đợi để họ liên lạc vào Phòng Thanh tra. Sau một lúc giằng co, tôi miễn cưỡng vào phía trong cổng đợi. Khi vào trong, tôi vẫn cố để tờ biểu ngữ cho nhiều người đi qua nhìn thấy. Một lát sau, một tay bảo vệ chạy lại cho biết là Phòng Thanh tra báo bận, không gặp tôi được.
Tôi bèn đi ra ngoài cổng và tiếp tục giơ túi tài liệu cùng tờ biểu ngữ lên trước ngực. 3 tay cảnh sát mặc thường phục liền chạy ra đuổi tôi đi, thái độ và hành vi của họ rất hung hãn. Tôi buộc phải lùi dần, lùi dần, nhưng bọn chúng vẫn không buông tha, mà cứ xấn tới. Cách cổng trụ sở Công an tỉnh khoảng 100m chúng vẫn tiếp tục xô đẩy tôi. Một tên còn tìm cách giật túi tài liệu của tôi. Trước phản ứng gay gắt của mấy người dân xung quanh, chúng mới chịu dừng tay. Trong khi giằng co với chúng, tôi thấy một viên trung tá an ninh đi xe máy từ cổng ra, gật đầu ra dấu khích lệ một trong 3 tên cảnh sát. Viên trung tá này chắc chắn là tay chân của những kẻ bị tôi tố cáo, còn mấy tay cảnh sát bảo vệ mặc thường phục kia đã được ngấm ngầm chỉ đạo trấn áp tôi.
3 tên cảnh sát kia vẫn đứng chặn không cho tôi tiếp cận cổng trụ sở Công an tỉnh. Một số người dân hỏi han, tỏ vẻ thông cảm và không dấu nổi sự bất bình trước cách hành xử của lũ côn đồ đội lốt công an.
Không còn cách nào khác, tôi đành phải ra về. Tôi cảm thấy vô cùng đơn độc trong cuộc chiến không cân sức này. Đất nước chúng ta rồi sẽ ra sao dưới sự “lãnh đạo” của những kẻ đã mất hết lương tri và liêm sỷ, trong một hệ thống mà sự thối nát đã đến độ tanh tưởi, trước sự hèn nhát cũng như thái độ bàng quan, vô trách nhiệm của nhiều trong số những người lẽ ra đã có thể lên tiếng hay góp phần thúc đẩy nhà chức trách phải giải quyết vụ việc?
Hà Nội, ngày 9/5/2012
Lê Anh Hùng
(CMND số 012191640 do Công an Hà Nội cấp ngày 15/7/2004; điện thoại: 01243210177; trang Facebook cá nhân: www.facebook.com/lehunglpa.)
"...Vì thông tin đó liên quan mật thiết đến vụ việc tố cáo của tôi nên hôm nay tôi xin cung cấp cho quý vị bản chụp bức TÂM HUYẾT THƯ của một số cán bộ, đảng viên tâm huyết với Đảng về sự gian lận trong lý lịch của ông Hoàng Trung Hải..."
Kính thưa quý vị,
Tối 12/5/2012 vừa qua, khi Diễn đàn Hội luận Phỏng vấn Hiện tình Việt Nam phỏng vấn tôi (lần thứ 2) về vụ tố cáo của tôi (08.05.2012 - Phỏng vấn anh Lê Anh Hùng về thâm cung bí sử của băng đảng mafia cộng sản Hà nội), người thực hiện cuộc phỏng vấn hỏi tôi là có biết gì về tin ông Hoàng Trung Hải là người của Cục Tình báo Hoa Nam (Trung Quốc) hay không? Tôi trả lời: “Trong câu chuyện tố cáo của tôi không có thông tin đó. Tuy nhiên, mấy ngày gần đây, một số vị lão thành cách mạng ở Hà Nội cho tôi biết rằng bố ông HT Hải là người Hán, và lý lịch ông ta có vấn đề.” Người phỏng vấn cũng cho tôi biết đó là tin từ nguồn tin quốc nội của họ.
Kính thưa quý vị,
Tối 12/5/2012 vừa qua, khi Diễn đàn Hội luận Phỏng vấn Hiện tình Việt Nam phỏng vấn tôi (lần thứ 2) về vụ tố cáo của tôi (08.05.2012 - Phỏng vấn anh Lê Anh Hùng về thâm cung bí sử của băng đảng mafia cộng sản Hà nội), người thực hiện cuộc phỏng vấn hỏi tôi là có biết gì về tin ông Hoàng Trung Hải là người của Cục Tình báo Hoa Nam (Trung Quốc) hay không? Tôi trả lời: “Trong câu chuyện tố cáo của tôi không có thông tin đó. Tuy nhiên, mấy ngày gần đây, một số vị lão thành cách mạng ở Hà Nội cho tôi biết rằng bố ông HT Hải là người Hán, và lý lịch ông ta có vấn đề.” Người phỏng vấn cũng cho tôi biết đó là tin từ nguồn tin quốc nội của họ.
Vì thông tin đó liên quan mật thiết đến vụ việc tố cáo của tôi nên hôm nay tôi xin cung cấp cho quý vị bản chụp bức Tam Huyet Thu, đảng viên tâm huyết với Đảng về sự gian lận trong lý lịch của ông Hoàng Trung Hải (bố là người Hán). Bức Tam Huyet Thu này tôi nhận được từ một số vị lão thành cách mạng, những người đã tiếp cận tôi về thư tố cáo của tôi. Tuy nhiên, hiện tôi chưa tiện cung cấp danh tính và địa chỉ của họ.
Nếu nội dung trong bức Tam Huyet Thu này là sự thật thì những kẻ đã và đang ủng hộ và bao che cho ông Hoàng Trung Hải đích thực là những tên Việt gian bán nước, và việc giải quyết vụ việc do tôi tố cáo lại càng trở nên vô cùng cấp bách vì sự hưng vong của nước nhà.
Thời gian qua, dư luận đã nhiều lần lên tiếng về việc các dự án hạ tầng quan trọng cứ lần lượt rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc (90% gói thầu EPC thuộc về các công ty Trung Quốc - Tuấn Việt Nam), điều này tiềm ẩn nhiều nguy cơ rất lớn không chỉ về kinh tế mà còn về an ninh – quốc phòng và xã hội. Với bức TÂM HUYẾT THƯ này, quý vị đã có thể hình dung ra căn nguyên của vấn đề.
Vì tính chất vô cùng hệ trọng của vụ việc do tôi tố cáo, tôi khẩn thiết đề nghị quý vị gửi thư tố cáo của tôi cùng bức Tam Huyet Thu đến các cơ quan hữu quan, những người có trách nhiệm, những người có tiếng nói trong xã hội, các bậc lão thành cách mạng, các Đảng viên chân chính, Hội Cựu Chiến binh các cấp, Hội Người Cao tuổi các cấp, v.v. để họ lên tiếng yêu cầu nhà chức trách phải giải trình về vụ việc. Đồng thời, đề nghị quý vị hãy phổ biến rộng rãi bức thư này để nhà chức trách không thể tiếp tục phớt lờ việc giải quyết vụ việc do tôi tố cáo.
Xin trân trọng cám ơn quý vị.
Hà Nội, ngày 14/5/2012
Lê Anh Hùng
Lê Anh Hùng