jeudi 22 mars 2012

 Thư Tố Cáo Ông Nông Đức Mạnh, Ông Nguyễn Tấn Dũng và Ông Hoàng Trung Hải



THƯ TỐ CÁO I
Kính gửi:
v BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam
v Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
v Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam
v UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
v Đại sứ quán các nước ở Hà Nội
v Các cơ quan thông tấn báo chí trong và ngoài nước

Tên tôi là Lê Anh Hùng, sinh ngày 27/8/1973 tại Hà Tĩnh; hộ khẩu thường trú tại Tổ 2, Cụm 5, Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội; CMND số 012191640 do Công an Hà Nội cấp ngày 15/7/2004. Vợ tôi tên là Lê Thị Phương Anh, sinh ngày 11/11/1984; hộ khẩu thường trú tại Tổ 2, Cụm 5, Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội; CMND số 013720063 do Công an Hà Nội cấp ngày 9/7/2004.
Chúng tôi gửi bức thư này để tố cáo những người có tên sau đây:
1. Ông Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam, phạm các tội danh:
- Nhập lậu vũ khí và nâng giá nhằm thu lợi cá nhân;
- Nhận hối lộ bảo kê cho tội phạm xã hội đen;
- Đưa ông Hoàng Trung Hải, trùm ma tuý, trùm mafia, trùm sát nhân, trùm phản quốc lên làm Phó Thủ tướng;
- Tòng phạm trong vụ bắt cóc và gây ra cái chết cho một bé gái 9 tháng tuổi (con gái của một trùm xã hội đen vốn là đàn em của ông Hải, và là kẻ nắm trong tay bằng chứng phạm tội của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải).

2. Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ, phạm các tội danh:
- Giao cấu với trẻ vị thành niên sau đó tòng phạm trong vụ ông Hoàng Trung Hải giết cô gái đã bị ông ta (Dũng) hãm hiếp hòng bịt đầu mối;
- Cùng ông Nông Đức Mạnh đưa ông Hoàng Trung Hải, trùm ma tuý, trùm mafia, trùm sát nhân, trùm phản quốc lên làm Phó Thủ tướng.

3. Ông Hoàng Trung Hải, Phó Thủ tướng Chính phủ, phạm các tội danh:
- Buôn bán ma tuý có tổ chức từ thời còn làm Tổng Giám đốc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam;

- Giết ít nhất là 5 người, trong đó có một trợ lý người Quy Nhơn, Bình Định, hòng bịt đầu mối;
- Bắt cóc và gây ra cái chết cho một bé gái 9 tháng tuổi (con gái của một trùm xã hội đen vốn đàn em của ông Hải, và là kẻ nắm trong tay bằng chứng phạm tội của ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải);
- Cấu kết với ông Nông Đức Mạnh nhập lậu vũ khí và nâng giá nhằm thu lợi cá nhân;
- Bán tài liệu [liên quan đến an ninh quốc gia] cho nước ngoài.
Ông Nông Đức Mạnh và ông Nguyễn Tấn Dũng hiện là những con tin trong tay ông Hoàng Trung Hải, đã và đang bị ông ta chi phối. Đặc biệt, cả ba hiện đều là những “con bạc” khát nước, sẵn sàng làm tất cả vì tiền, bởi họ đã dốc vào vụ này một số lượng tiền khổng lồ.
Ngoài ra, vụ án này còn liên quan đến một số quan chức cao cấp sau: Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Đảng CSVN; Lê Hồng Anh, Đại tướng, Bộ trưởng Công an; Nguyễn Khánh Toàn, Thượng tướng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an. Họ là những người đã nhận hối lộ và bảo kê cho tội phạm xã hội đen.
Chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung tố cáo này.
Quảng Trị, 22/9/2009
Lê Anh Hùng

Xin quý vị hãy kiên nhẫn dõi theo tấn bi kịch của một thể chế chính trị đã tồn tại hơn sáu mươi năm qua. Tất cả bắt đầu từ bi kịch của một đôi lứa.

Năm 2002, trong thời gian vào công tác tại Quảng Trị, tôi đã gặp Phương Anh, người vợ tương lai của mình, tại nhà hàng Lạc Dương ở Đông Hà, nơi cô ấy làm nhân viên phục vụ. Hai người đem lòng yêu nhau sau một thời gian ngắn tìm hiểu. Những tưởng câu chuyện rồi sẽ tựa như gió thoảng mây bay, bởi lẽ không ai dại gì lại có ý định lấy vợ xa đến thế, vừa không được học hành đến nơi đến chốn, vừa làm cái nghề không lấy gì làm vẻ vang nếu không muốn nói là dễ mang điều tiếng đó. Nhưng rồi tính cảm giữa hai người ngày một sâu nặng, tôi không chỉ yêu mà còn thương cô ấy vô cùng. Tôi như nhìn thấy hình ảnh của chính mình trong cái tuổi thơ đầy bất hạnh của Phương Anh, hậu quả từ sự lỡ làng của người mẹ trẻ với một ông bố cũng trẻ nốt (cả hai đều mới 19 tuổi khi Phương Anh ra đời). Vì nhiều lý do khác nhau mà hai người không đi tới hôn nhân, dù hai gia đình chỉ cách nhau chừng 300m. Thời gian này Phương Anh sống cùng với bà ngoại, mẹ và người cậu út. Phương Anh còn có hai đứa em cùng mẹ khác cha, một gái 3 tuổi và một trai mới xấp xỉ một tuổi, kết quả từ sự làm lẽ người ta của mẹ Phương Anh (chưa kể còn một đứa em cùng mẹ khác sinh năm 1991, sống với bố và mẹ kế gần đó). 
Ngoài ra, ông cậu cũng có một đứa con gái mới hơn một tuổi, mẹ nó đã bỏ đi từ khi nó mới được hơn một tháng tuổi, do không chịu nổi gia cảnh nghèo nàn cùng tính khí thất thường của người chồng. Cả gia đình sáu người tá túc trong một căn nhà mái tôn tồi tàn, gió thổi tứ bề. Bà ngoại Phương Anh nấu ăn cho một nhà hàng, ông cậu thì thỉnh thoảng chạy xe khách (làm phụ xe). Mẹ Phương Anh phải ở nhà vì một nách ba đứa trẻ lít nhít. Phương Anh vì thế phải đi làm để phụ giúp thêm cho gia đình. Nói chung đó là một gia đình rất nghèo khó.

Thêm vào đó, trước khi cưới hoàn cảnh của tôi cũng rất khó khăn khi hết sạch tiền, nợ nần hơn 50 triệu (trước kia vay để đưa cho em trai tôi đi mua nhà ra ở riêng) và phải đối mặt với một tương lai bấp bênh tại Cty Xây dựng Lũng Lô - Bộ Quốc phòng, 162 Trường Chinh, Hà Nội, do có mâu thuẫn với ông phó giám đốc chuẩn bị lên làm giám đốc Cty.

Kể qua như thế để mọi người thấy việc đi đến hôn nhân là một quyết định vô cùng dũng cảm, hoàn toàn không xuất phát từ lý trí mà là từ trái tim. Song trước sau tôi vẫn không hề hối hận với quyết định này bởi tôi đã tự nhủ với lòng mình rằng dù sau này có gian khổ đến đâu thì cũng cố cắn răng chịu đựng, không được hối tiếc hay kêu ca gì. Để củng cố quyết tâm, tạo thêm sức ép cho chính bản thân mình, tôi đã cho Phương Anh có thai trước. Chuyện đó xẩy ra vào ngày 20/2/2003, sau đó chúng tôi kiểm tra và biết chắc là đã có kết quả. Chuyện này tôi cũng đã cho mẹ tôi biết. 

Việc tôi cưới Phương Anh phần nào cũng xuất phát từ hoàn cảnh của gia đình mình. Ai cũng biết mẹ tôi là một người rất khó tính nên tôi chắc mẩm rằng một người chân quê, biết vâng lời như Phương Anh chắc hẳn sẽ dễ chiều lòng mẹ và không dám trái ý mẹ. Tôi cũng khấp khởi trong lòng khi thấy thời gian trước khi cưới, mẹ và Phương Anh có vẻ hợp ý nhau, và háo hức trước viễn cảnh một gia đình đầm ấm mà mình hằng ao ước từ tấm bé. Đôi lúc tôi có cảm giác cuộc hôn nhân này như là nơi nương náu của hai tâm hồn bị nhiều đau thương vùi dập.

Thế rồi sau ngày cưới (24/5/2003), những "khấp khởi" và "háo hức" của tôi đã sớm vỡ tan như bong bóng xà phòng còn hiện thực lại là những gì mà vợ tôi đã sớm mơ hồ mường tượng ra.
Sau một thời gian, do không thể chung sống được với nhau, nhà tôi phải ngăn ra, bán đi một nửa và mẹ tôi đi mua một ngôi nhà khác để ở. Lúc đó, hai vợ chồng tôi sống rất khó khăn, chật vật. Thời gian này công việc của tôi chưa ổn định. Tôi buộc phải rời Cty Xây dựng Lũng Lô do có mâu thuẫn với ông phó giám đốc cũ tên là Nguyễn Văn Hùng mới lên làm giám đốc. Tìm công việc mới cho phù hợp cũng không dễ dàng gì, Cty này rồi lại Cty khác. Đến lượt xe máy cũng phải bán để sửa nhà và chuyển sang đi xe buýt đi làm. Cuối cùng, đến tháng 7/2004 tôi vào làm tại một Cty Xây dựng Thương mại Miền núi, 99 Hoàng Quốc Việt, thuộc Tổng Cty Thương mại & Xây dựng (Vietracimex), Bộ Giao thông Vận tải. Đây là một Cty đang trong giai đoạn chuyển tiếp, chuẩn bị cổ phần hoá nên dù còn khó khăn nhưng xem ra tương lai khá sáng sủa. Lương tháng của tôi lúc đó chỉ vỏn vẹn mấy trăm ngàn. Vợ tôi thì chưa xin được việc làm và đau yếu luôn, hậu quả từ lần sẩy thai trước đấy, nên hoàn cảnh càng thêm khốn khó. Nhiều lúc cả hai vợ chồng không còn một xu dính túi. Sáng sáng vợ tôi chạy vạy mượn được mấy ngàn nhét vào túi chồng để chồng ăn sáng và đi xe buýt còn mình thì nhịn từ sáng đến chiều, chỉ uống nước sôi nguội cầm hơi. Buổi chiều lại chạy ra ngoài hàng mua nợ gạo và thức ăn về chuẩn bị bữa tối và dù rất đói cũng không dám ăn nhiều mà lặng lẽ nhường cho chồng ăn. Có những lúc nửa đêm thức giấc, bụng dạ đói cồn cào mà không có gì ăn đành uống nước cho đỡ đói rồi đi ngủ tiếp. Ở nhà vợ tôi cũng tự mình đi xin việc làm, lúc thì nhờ bạn hàng xóm sau nhà, lúc thì đi xe buýt. Một lần vừa đói vừa mệt vợ tôi bị ngất bên hè phố, may có bà hàng nước tận tình chăm sóc và mua cho chiếc bánh mì ăn mới hồi tỉnh lại. 

Những chuyện này lúc đó tôi không hề hay biết bởi vợ tôi không hề nói gì, sợ rằng tôi sẽ buồn và nản lòng. Mãi sau này trong thời gian lánh nạn vợ tôi mới tâm sự cho tôi biết. Tuy vất vả, khốn khó là thế nhưng thời gian này vợ tôi vẫn cảm thấy hạnh phúc vì thoát khỏi cảnh địa ngục mẹ chồng con dâu ngày nào. Thời gian này tôi đang dồn hết tâm trí vào việc dịch một cuốn sách thuộc lĩnh vực học thuật nên phần nào cũng quên đi những khó khăn thường nhật.
Tháng 11/2004, qua vợ của bạn tôi, vợ tôi tìm được một chân bán hàng trong siêu thị Starbowl trên đường Phạm Ngọc Thạch. Đến tháng 3/2005, do có một số khúc mắc nên vợ tôi xin nghỉ làm tại Starbowl. Thời gian làm ở đây vợ tôi có quen tay trưởng phòng Marketing của Chi nhánh Cty May Nhà Bè tại Hà Nội, cùng có cửa hàng tại siêu thị Starbowl. Khi thôi bán hàng ở Sarbowl, vợ tôi định nhờ tay này xin sang làm cho Cty May Nhà Bè nhưng Cty lại chưa có đợt tuyển nhân viên. Ông này bèn giới thiệu vợ tôi tới gặp người bạn tên là Trọng làm trưởng phòng Marketing của Chi nhánh Cty May Việt Tiến tại Hà Nội.

 Vợ tôi chuẩn bị hồ sơ nộp cho tay Trọng nhưng lúc đầu anh ta không đồng ý, bởi vợ tôi không có bằng cấp, giọng nói miền Trung, lại mang dáng vẻ quê mùa. Vợ tôi liền mạnh dạn nói, "Anh cứ nhận em vào làm thử một tháng đi, em không cần nhận lương đâu, nếu không làm được thì em xin nghỉ!" Lúc đó Trọng mới đồng ý và từ tháng 4/2005 bố trí vợ tôi làm nhân viên bán hàng tại cửa hàng Việt Tiến trên phố Chùa Bộc do Long, sinh năm 1973, làm cửa hàng trưởng.

Vào làm tại cửa hàng trên được ba hôm thì vợ tôi được Trọng điều lên bán hàng tại siêu thị Tràng Tiền Plaza do một cô tên Loan, sinh năm 1978, làm tổ trưởng (cửa hàng trưởng). Trong số nhân viên ở đây có một cô tên là Thuỷ, sinh năm 1985, người Hà Nội. Ba nhân vật Long, Loan, Thuỷ sẽ còn được nhắc tới ở đoạn sau của câu chuyện. Sau khi lên làm ở Tràng Tiền Plaza được ba tuần thì Loan, do mâu thuẫn với Trọng, bị điều đi làm tổ trưởng ở siêu thị Metro (trên đường Phạm Hùng). Nhận thấy đây là một cơ hội lớn nên vợ tôi đã chủ động đề nghị với Trọng cho lên đảm nhiệm vị trí cửa hàng trưởng. Trước đó ứng cử viên sáng giá nhất cho vị trí tổ trưởng ở Tràng Tiền Plaza là Thuỷ. Tuy nhiên, nhận thấy qua hai tuần bán hàng ở đây vợ tôi đã tỏ ra là một người có khiếu bán hàng, chịu khó, không tụm năm tụm ba ngồi lê đôi mách, đồng thời lại thấy Thuỷ còn mải chơi, thiếu tập trung cho công việc nên Trọng đã đồng ý đưa vợ tôi lên làm tổ trưởng phụ trách cửa hàng. Vì việc này mà giữa vợ tôi và Loan, Thuỷ đã xẩy ra mâu thuẫn, thậm chí còn đánh nhau, cho rằng vợ tôi đã qua mặt họ dành lấy vị trí ngon lành này. Tuy nhiên, bằng bản lĩnh và thiện chí của mình vợ tôi đã xử trí êm đẹp, không những thế còn thu phục được nhân tâm, khiến Thuỷ coi vợ tôi như chị nuôi, một lòng bảo vệ cô ấy. Vợ tôi đã tận tình chỉ bảo và sau đưa nó lên làm tổ phó. Còn Loan thì tuy bằng mặt nhưng không bằng lòng, vẫn ngấm ngầm ghen tức với vợ tôi. 

Sau khi lên làm tổ trưởng, vợ tôi đã biến quầy hàng ở Tràng Tiền Plaza thành một cửa hàng điển hình của Cty Việt Tiến không chỉ ở Hà Nội mà còn trên phạm vi cả nước, hàng hoá được sắp xếp thuận tiện và bắt mắt, doanh số bán hàng cao nhất. Nhờ đó, cô ấy nhiều lần được Chi nhánh Hà Nội và Cty tuyên dương, khen thưởng.

Thời gian làm tổ trưởng ở Tràng Tiền Plaza, vợ tôi cũng được Trọng tin tưởng nhờ giúp một số việc thuộc lĩnh vực của Trọng như ký kết hợp đồng với các đại lý, giao hàng... do Trọng còn bận rộn buôn bán hàng cấm. Vì thế, đến tháng 8/2005, khi Cty Việt Tiến thay đổi nhân sự Chi nhánh Hà Nội (ông Xuân Giám đốc Chi nhánh vào Tp HCM đảm nhận nhiệm vụ khác, Trọng Trưởng phòng Marketing lên thay) thì vợ tôi được Trọng đề bạt lên thay vị trí của anh ta.

Trong hai ngày 7&8/8/2005, Cty Việt Tiến tổ chức hội nghị khách hàng và mở tiệc giao đãi tại khách sạn Bảo Sơn (Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội). Tiếp theo, lãnh đạo Cty gồm ông Nguyễn Đình Trường, Tổng GĐ, ông Thành Kế toán trưởng Cty, ông Xuân Giám đốc Chi nhánh Hà Nội, một số trưởng phòng cùng một nhóm nhân viên trong đó có Loan và Thuỷ lên Tam Đảo nghỉ mát (thời gian này các quầy hàng ở Tràng Tiền Plaza và siêu thị Metro đều đóng cửa). Sau đó ít hôm lại có thêm bà Nga Phó TGĐ từ Sài Gòn ra. Mục đích chính của chuyến đi là nhằm thù tiếp hai ông bạn Việt Kiều của TGĐ – ông Trường đang dự định thông qua hai ông này để mở văn phòng tổng đại lý Việt Tiến ở Châu Âu, đồng thời bàn về việc thay đổi nhân sự của Chi nhánh Hà Nội. Lúc này Trọng đang đi buôn hàng cấm và nằm vùng ở Đồ Sơn, Hải Phòng từ cuối tháng 7/2005 nên không tham gia hội nghị trên và không có mặt trong đoàn Cty đi nghỉ ở Tam Đảo. Trước đó, cuối tháng 7/2005, hai vợ chồng tôi về quê, đến đầu tháng 8/2005 mới ra Hà Nội. Khi về quê vợ tôi cho Thuỷ mượn xe máy do Thuỷ mới bán xe. Sau đó Trọng lại mượn xe máy vợ chồng tôi từ Thuỷ để đi Hải Phòng. Cần nói thêm là thời gian này tôi đã ứng tuyển thành công vào Công ty Komatsu Việt Nam và chờ ngày đi làm ở Cty mới nên có điều kiện theo sát những bước tiến của vợ tôi đồng thời hỗ trợ, chỉ bảo khi cần thiết.

Danh sách chung cuộc để lựa chọn người thay thế vị trí Trưởng phòng Marketing của Trọng gồm có vợ tôi và Long, cửa hàng trưởng ở Chùa Bộc. Loan đang ở Tam Đảo cùng đoàn cũng ra sức vận động, lôi kéo mọi người để được nhảy vào vị trí đó. Thời gian này ông Trường mới tiếp xúc với vợ tôi và tỏ ra rất có ấn tượng, ông cũng được nghe nhiều người nói về cô ấy. Hồ sơ vợ tôi lúc đó đang nằm trong tay Trọng, và Trọng phịa ra là vợ tôi đã có bằng trung cấp. Hầu hết mọi người đều ủng hộ vợ tôi, chỉ có bà Nga Phó TGĐ là hết lòng ủng hộ Long. Ngày 22/8/2005, ông Xuân từ Tam Đảo về Hà Nội họp toàn thể Chi nhánh để công bố một số quyết định nhân sự. Tới dự buổi công bố có ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch HĐQT Tổng Cty Dệt May Việt Nam (Vinatex), lúc đó vợ tôi vẫn chưa biết gì vê ông này. Trọng được cử thay ông Xuân làm Giám đốc Chi nhánh và vợ tôi là người đảm nhiệm vị trí Trưởng phòng Marketing thay Trọng, thời hạn thử thách là ba tháng. Quyết định có hiệu lực từ ngày 1/9/2005. 

Vì nội dung quyết định được giữ bí mật đến phút chót nên trước đó Long vẫn chắc mẩm là sẽ được lên thay Trọng. Khi đọc đến tên vợ tôi mọi người đều ồ lên và vỗ tay chúc mừng, một số người còn cảm động đến rơi nước mắt. Mọi người quyết định là đợi Trọng (vẫn đang nằm ở Hải Phòng) về mới tổ chức liên hoan. Vợ tôi đi xe máy về nhà báo tin cho tôi mà người cứ lâng lâng như bay trên mây. Và người đầu tiên mà chúng tôi cho biết tin vui này chính là mẹ tôi! Vợ tôi cũng quyết định chọn Thuỷ làm phó phòng cho mình.

Lúc này thì ông Trường TGĐ đã có thiện cảm đặc biệt với vợ tôi và đề nghị nhận cô ấy làm con nuôi. Sau đó, mặc dù chưa nhận bàn giao chính thức nhưng vợ tôi đã bắt tay ngay vào công việc. Đầu tiên là ký hợp đồng giao hàng cho một đại lý tại Hà Nội. Tiếp theo là một hợp đồng xuất khẩu trị giá 500 triệu VNĐ. Hợp đồng này hết sức có ý nghĩa vì là hợp đồng xuất khẩu đầu tiên do vợ tôi ký. Ngay sau khi ký xong hợp đồng này, vợ chồng tôi đã về nhà mẹ tôi tổ chức liên hoan gia đình. Sau đó, hết sức ấn tượng với cô Trưởng phòng Marketing còn quá trẻ, vị khách kia đã nhiệt tình quảng bá và giới thiệu thêm một số khách hàng cho vợ tôi. Cứ thế, khách hàng cũ lại giới thiệu khách hàng mới và số lượng hợp đồng cũng như giá trị từng hợp đồng đã tăng lên chóng mặt chỉ trong một thời gian ngắn. Nếu như trước đó kỷ lục giá trị hợp đồng xuất khẩu trực tiếp (phi quota) của Cty Việt Tiến chỉ là 1,4 tỷ VNĐ thì lúc này giá trị hợp đồng lớn nhất mà vợ tôi ký là 6,4 tỷ VNĐ và tổng giá trị các hợp đồng đã suýt soát 30 tỷ VNĐ. Quá phấn khởi với thành tích nói trên, ông Trường TGĐ đã họp bàn với bộ sậu tại Tam Đảo và đi đến quyết định bất ngờ: đề bạt vợ tôi lên vị trí Giám đốc Chi nhánh. 

Trước đó ông đã phải đả thông với Trọng, dự tính sẽ điều Trọng vào Tp HCM giữ chức vụ khác. Hẳn nhiên là Trọng cũng chẳng háo hức gì với việc phải vào Sài Gòn nhưng vì vợ tôi nên Trọng chấp nhận hy sinh.

Ngày 26/9/2005, ông Trường TGĐ cùng ông Xuân (lúc này đã chuyển cả bầu đoàn từ Tam Đảo lên Sapa nghỉ tiếp) về Hà Nội công bố quyết định. Ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch HĐQT Vinatex cũng đến dự. Mọi người được xem lại các băng ghi hình các cuộc đám phàn ký hợp đồng của vợ tôi (văn phòng Chi nhánh có gắn camera 24/24h) sau đó từng người đặt câu hỏi chất vấn tân Giám đốc Chi nhánh. Quyết định có hiệu lực từ ngày 1/10/2005. Ông Ân tỏ ra rất ấn tượng và ngay buổi hôm đó đã mời vợ tôi về Vinatex làm việc, song chưa nói là làm việc gì. Tuy nhiên cô ấy đã khéo léo từ chối.
Cần phải kể thêm về Loan và Long. Sau khi vợ tôi được cử làm Trưởng phòng Marketing, cả hai tên đều vô cùng tức giận, đặc biệt là Loan, mặc dù ả ta thậm chí còn không nằm trong danh sách lựa chọn cuối cùng. Vì thế ả đã nghĩ ra đủ trò để xoay chuyển tình hình. Ả lôi kéo, mặc cả những người như ông Thành Kế toán trưởng, thậm chí cả doạ dẫm sẽ tiết lộ thông tin nhạy cảm của ông này. 

Ả gọi điện từ phỉnh nịnh đến mặc cả và cuối cùng là doạ dẫm vợ tôi để nhả chiếc ghế Trưởng phòng cho ả. Rồi ả lại quay sang mặc cả với Thuỷ để Thuỷ nhường vị trí Phó phòng Marketing cho mình. Vợ tôi phải gọi điện cho Trọng và Trọng đã dằn mặt ả. Ông Trường biết chuyện nhưng không làm được gì bởi Loan biết quá nhiều chuyện nhạy cảm của ông cũng như của Cty (Loan đã ăn nằm với hầu hết lãnh đạo Cty Việt Tiến, và ả ta thường ranh mãnh chụp hình, ghi âm hay quay phim được). Cuối cùng thấy không ăn thua ả liền quay sang doạ sẽ tiết lộ chuyện Trọng và vợ tôi cùng ả đưa hàng nhái Việt Tiến vào bán. Số là lúc mới vào làm nhân viên tại Tràng Tiền Plaza, Trọng đã bàn với Loan, lúc ấy còn làm tổ trưởng ở đó, và vợ tôi cùng góp tiền mua hàng nhái trà trộn vào hàng Cty để bán và rút tiền lời chia nhau. Mỗi người góp 5 triệu, Trọng đi đặt mua hàng nhái rồi đem về giao cho Loan và vợ tôi. Lường trước được bộ mặt tráo trở của Loan nên Trọng đã khôn khéo giấu tờ giấy biên nhận góp tiền đi và khi ả doạ tiết lộ chuyện này thì Trọng liền chỉ đạo vợ tôi lên Tràng Tiền Plaza đem số hàng nhái còn lại giấu đi. Vì thế Loan không có bằng chứng thuyết phục nào để tố cáo. Tuy nhiên, thấy không thể chủ quan với Loan được nên tôi đã bày cho vợ tôi kế hoãn binh bằng cách nói với Thuỷ là hứa sẽ nhường vị trí Phó phòng cho ả, nhưng phải đợi vài tháng tới nhằm giữ thể diện cho Thuỷ và uy tín của Cty. Sau đó Trọng sẽ kiếm cớ đuổi Loan ra khỏi Cty. 

Loan có vẻ hỉ hả với đề xuất đó, lại ngọt nhạt với vợ tôi và khi Long lên Tam Đảo nghỉ thì Loan đã cự tuyệt khi tên này tỏ ý lôi kéo ả tìm cách phá đám. Sự việc được giải quyết êm thấm khiến mọi thứ diễn ra sau đó không gặp trở ngại gì.
Tuy nhiên, sau khi vợ tôi nhận quyết định làm Giám đốc Chi nhánh thì lại xẩy ra một sự cố có tính bước ngoặt. Số là khi quyết định giao cho vợ tôi vị trí Giám đốc Chi nhánh, ông Trường đã không tham khảo ý kiến của một số lãnh đạo Cty trong Sài Gòn và không theo đúng quy trình bổ nhiệm cán bộ. Vì thế, một số người trong Sài Gòn phản đối quyết liệt, đặc biệt là Phó TGĐ thường trực Lê Viết Toà. Xin dừng lại một chút để nói thêm về nhân vật này. Thực ra, tên thật của anh ta là Lê Văn Toại, sinh ra trong một gia đình trùm mafia ở Sài Gòn, còn Lê Viết Toà lại chính là tên thật của Xuân, Giám đốc Chi nhánh Hà Nội của Cty Việt Tiến. Toại và Toà vốn là bạn học phổ thông của nhau. Sau khi tốt nghiệp phổ thông thì Toà thi đỗ và vào học đại học còn Toại thì nối gót truyền thống gia đình, trở thành một tên trùm xã hội đen và buôn bán ma tuý. Bằng những mối quan hệ dây mơ rễ má, gia đình Toại đã thiết lập được mối quan hệ đặc biệt với ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch HĐQT Vinatex. Gia đình này đã mặc cả với ông Ân nhằm tạo vỏ bọc chắc chắn cho anh ta dễ bề hoạt động, đưa anh ta lên làm Phó TGĐ thường trực Cty Việt Tiến. Tuy nhiên do Toại không có bằng cấp gì nên ông Ân đã nghĩ ra cách mua chuộc Toà và để Toại đội lốt Toà. Ông Ân gây sức ép với lãnh đạo Công ty Việt Tiến và quẳng ra cho ông Toà một số tiền không nhỏ cùng cơ hội thăng tiến trong tương lai.

 Đồng thời, Toại cũng hăm doạ Toà khiến anh này không còn cách nào khác mà phải nghe theo lời anh ta. Sau đấy, Toà làm ở Cty Việt Tiến với lý lịch mới tên là Xuân, được ông Trường coi như đệ tử ruột và cất nhắc lên đến vị trí Giám đốc Chi nhánh Hà Nội, dự kiến sau khi Trọng lên thay sẽ nhảy lên vị trí Phó TGĐ và ngấp nghé chiếc ghế TGĐ khi ông Trường về hưu. Tuy được ông Trường cất nhắc rồi đưa lên làm Phó TGĐ thường trực nhưng Toại (đội lốt Toà) lại chẳng coi ông Trường ra gì mà còn chống đối ra mặt. "Thành tích" làm việc của Toại cũng đầy tai tiếng và nhiều lần đã bị phản ánh ra Tổng Cty Dệt May nhưng chẳng ai làm được gì vì sau lưng anh ta đã có ông Lê Quốc Ân bao che, dung túng.
Toại quyết định cầm đầu một nhóm 5 người gồm một số trưởng phó phòng chức năng trực tiếp ra Hà Nội phỏng vấn và sát hạch vợ tôi. Khi biết tin, ông Trường hết sức tức giận nhưng không làm được gì vì rõ ràng ông đã hành xử không đúng. Bà Nga Phó TGĐ, lúc này đã hết sức quý mến và ủng hộ vợ tôi, là người báo cho vợ tôi tin này. Vợ tôi quyết định là sẽ tự mình giải quyết để tránh liên luỵ đến ông Trường, không gọi điện đề nghị ông can thiệp mặc dù lúc này bà Nga Phó TGĐ cho biết là ông Trường sẵn sàng làm bất cứ điều gì để bảo vệ cô ấy. Vợ tôi gọi điện cho ông Lê Quốc Ân. Ông Ân nói là ông rất ủng hộ vợ tôi nhưng trong việc này ông Trường đã làm sai quy định. Bà Nga tư vấn cho vợ tôi là nên chuẩn bị một ít tiền để bồi dưỡng cho đoàn phỏng vấn. Nhưng lúc này vợ chồng tôi không biết xoay đâu ra tiền. Tôi thì đang nghỉ chờ đi làm ở Công ty mới. Buổi chiều ngày 2/10/2005 nhận được tin thì sáng ngày 3/10 đã phải đón tiếp Toại. Cuối tháng các cửa hàng chuyển tiền về Chi nhánh và kế toán Chi nhánh đã chuyển hết tiền vào Cty. Thế là vợ tôi đem dây chuyền bạch kim (do ông Toà, tức Xuân, tặng quà ký hợp đồng xuất khẩu) đi cầm được 4 triệu VNĐ và đến 1h khuya hôm đó còn đem CPU máy tính đi đặt ở hiệu Internet quen gần nhà được thêm 1 triệu nữa, cả thảy được vỏn vẹn 5 triệu đồng, quá ít ỏi nếu so với mức lương Giám đốc Chi nhánh có thể lên tới 3.000USD/tháng. Hôm ấy ba tôi trong quê ra chơi và ngủ lại nhà, sáng sớm hôm sau thì ông về.
Sáng hôm sau, vợ tôi lững thững đi bộ ra đầu ngõ để bắt xe ôm đến cơ quan (ô tô của Chi nhánh đang ở Sapa) thì bất ngờ gặp ông Lê Quốc Ân đang đợi đầu ngõ 358 Bùi Xương Trạch. Hoá ra là ông đã dò hỏi và biết láng máng là nhà tôi nằm trong ngõ này và ông đến đón sẵn từ sớm. Ông Ân dừng xe mua cho vợ tôi chiếc bánh mì và hộp sữa tươi, được một lúc thì vợ tôi ngủ thiếp trên xe, mắt hãy còn sưng húp vì đêm qua mất ngủ và ấm ức khóc. Đến văn phòng Chi nhánh Việt Tiến ở số 21 Phan Chu Trinh, ông Ân đậu xe bên ngoài rồi cài máy ghi âm vào sau mái tóc vợ tôi. Vợ tôi xốc lại tinh thần và nhanh nhẹn bước vào văn phòng thì biết đoàn phỏng vấn do Toại dẫn đầu đã đến và chờ sẵn. Bên ngoài, ông Ân gọi điện lên Sapa gặp ông Trường và cho ông Trường cùng mọi người ở đây theo dõi trực tiếp toàn bộ cuộc phỏng vấn qua máy ghi âm. Vợ tôi bình tĩnh, tự tin, khôn khéo và thẳng thắn trả lời các câu hỏi do Toại và đoàn đặt ra, nhiều lúc còn chủ động lật ngược câu hỏi khiến Toại rơi vào thế bị động. Cô ấy còn khéo léo tiếp cận và đút cái phong bì 5 triệu đồng vào túi anh ta. Kết thúc buổi phỏng vấn, cả đoàn ai cũng tâm phục khẩu phục. Toại còn đề nghị đưa vợ tôi về nhà nhưng cô ấy nói đã có người đưa về rồi. Bước ra ngoài Toại mới thấy người đón vợ tôi không ai khác mà chính là ông Lê Quốc Ân. Hai người bắt tay nhau, Toại không ngớt lời khen ngợi vợ tôi. Đoàn của Toại lên thẳng Sapa nhập hội cùng bầu đoàn của ông Trường, người lúc này đang có tâm trạng vô cùng hả hê. Trên đường đưa vợ tôi về nhà, ông Ân đã chính thức mời cô ấy về làm Trưởng phòng Marketing Vinatex, với mức lương 6.000USD/tháng, ngoài ra ông còn đề nghị nhận vợ tôi làm con nuôi. Cả hai đề nghị vợ tôi đều khôn khéo thoái thác. Tuy nhiên sau đó ông Ân không ngừng đưa ra đề nghị làm bố nuôi và hạn cho vợ tôi phải trả lời trong vòng ba ngày, đồng thời ông còn gây sức ép với ông Trường. Cuối cùng, vì tương lai của vợ tôi cũng như tương lai của chính mình, ông Trường đã đồng ý và mở đường cho ông Ân nhận cô ấy làm con nuôi.
Ngày 5/10/2005, ông Ân mở tiệc gia đình ở khách sạn Horison, chính thức nhận vợ tôi làm con nuôi. Tới dự có toàn thể gia đình ông, bạn bè và một số lãnh đạo của Vinatex. Tôi không có mặt trong buổi tiệc này vì thấy mình chưa tiện xuất hiện nên kiếm cớ thoái thác. Đi dự tiệc ra mắt gia đình bố nuôi về mà vợ tôi ôm lấy tôi khóc nức nở, vì thực lòng cô ấy không muốn điều đó chút nào, chẳng qua là do bị ép buộc mà thôi. Điều này phần nào cũng cho thấy phẩm chất đáng quý của cô ấy. Với các ông bố nuôi sau này cũng thế.
Ông Ân lại tiếp tục tấn công để kéo bằng được vợ tôi về làm việc tại Vinatex cho dù cô ấy chẳng hề ham muốn tý nào. Vợ tôi yêu công việc ở Việt Tiến, muốn ở lại để giúp ông Trường và cũng để tránh tiếng là vì tiền mà vội chuyển sang Vinatex. Tuy nhiên, sau đó xét thấy tương lai ở Vinatex sẽ sáng sủa hơn, đồng thời ở Việt Tiến lại đang có mâu thuẫn nội bộ căng thẳng giữa ông Trường và Toại, người đang lăm le hất cẳng ông, nên tôi đã khuyên vợ nên chuyển sang Vinatex. Lúc này ông Trường phần vì bị ông Ân gây sức ép, phần vì nghĩ tới tương lai của vợ tôi nên cuối cùng đành nhượng bộ, mở đường cho cô ấy chuyển sang Vinatex. Về việc này thì ông Ân tỏ ra bài bản hơn ông Trường, trước đấy ông đã tạo điều kiện cho vợ tôi tiếp xúc với các lãnh đạo Vinatex và giới thiệu về cô ấy, những người này cũng thuyết phục cô ấy về làm việc. Sau khi vợ tôi nhận lời, ông đã họp Hội đồng Quản trị và Ban Tổng GĐ Vinatex để đề xuất ý kiến. Mọi người đều đồng tình ủng hộ. Theo đề nghị của ông Ân, vợ tôi đã giấu ông Trường đem về cho Vinatex một hợp đồng xuất khẩu trị giá 12 tỷ VNĐ như là món quà ra mắt.
Sáng ngày 13/10/2005, vợ tôi tới Văn phòng Vinatex trên phố Hai Bà Trưng dự lễ công bố quyết định. Toà nhà được trang hoàng lộng lẫy, hoa hoè trang trí tận từ ngoài cổng. Toàn thể lãnh đạo và nhân viên Văn phòng cùng một số lãnh đạo các công ty thành viên đến dự. Bộ trưởng Công nghiệp Hoàng Trung Hải cũng có mặt. Mọi người được xem băng ghi hình các cuộc đàm phán ký kết hợp đồng của vợ tôi, băng ghi âm cuộc trả lời phỏng vấn với Toại. Vợ tôi bình tĩnh và tự tin trả lời các câu hỏi do cử toạ đặt ra. Cả hội trường vỗ tay hoan hô và chúc mừng. Đích thân Bộ trưởng Hoàng Trung Hải tới hôn lên trán cỗ vũ vợ tôi. Theo quyết định, vợ tôi sẽ đảm nhiệm chức vụ Trưởng phòng Marketing Vinatex từ ngày 1/11/2005, thời hạn thử thách là 3 tháng. Trong thời gian thử thách thì không có lương mà chỉ nhận thưởng từ kết quả công việc. Mức lương sau đó sẽ vào khoảng 6.000USD/tháng. Sau khi tham dự buổi ra mắt tân trưởng phòng Marketing của Vinatex, ông Hoàng Trung Hải rất quý mến và đòi nhận vợ tôi làm con nuôi. Một mặt ông thuyết phục vợ tôi, một mặt ông ép ông Ân và ông Trường, hai ông buộc phải đồng ý và cô ấy cũng không còn cách nào khác.
Khi vợ tôi được giao nhiệm vụ Giám đốc Chi nhánh của Việt Tiến, tôi đã trực tiếp tìm cho vợ một trợ lý song chưa gặp được người ưng ý. Sau đó, khi vợ tôi chuyển sang làm Trưởng phòng Marketing của Vinatex thì ông Trường đã cử chính tay trợ lý thân cận và tài giỏi của mình ra Hà Nội làm trợ lý cho cô ấy. Anh này tên là Cường, sinh năm 1973, đã có vợ con ở Sài Gòn.
Trở lại với những diễn biến trong nội bộ Cty Việt Tiến. Sau khi lên Sapa, Toại liền cặp ngay với Loan và anh ả cùng ở chung một phòng. Thuỷ bí mật cài máy ghi âm vào trong phòng bọn này nên những cuộc bàn tính giữa chúng đều bị Thuỷ nắm được và báo cho vợ tôi, ông Trường và ông Ân. Loan trách Toại là tại sao không ủng hộ ả ngồi vào chiếc ghế Trưởng phòng Marketing. Toại nói việc bố trí nhân sự này anh ta không biết gì cả. Thời gian đầu, bề ngoài anh ta vẫn tỏ ra khâm phục vợ tôi và vẫn hoà nhã với cô ấy, nhưng dần dà với sự xúc xiểm của Loan cộng với bản chất xã hội đen của mình, anh ta quay sang muốn gây khó dễ với vợ tôi. Một hôm, khi hai vợ chồng tôi đang trên đường đến đền thờ Hai Bà Trưng ở Vĩnh Phúc chơi, Toại gọi cho vợ tôi và hỏi có biết Trọng đi đâu không. Vợ tôi trả lời là không biết. Toại liền nói, "Bồ ruột của Trọng mà không biết Trọng đi đâu à?" Vợ tôi thấy bị xúc phạm nên nói lại cho Toại một trận khiến anh ta phải xin lỗi. Những ngày sau đó Toại lại tiếp tục nhiều lần gọi điện xúc phạm vợ tôi, anh ta còn nói về quan hệ giữa ông Trường, ông Ân và vợ tôi, "Bố con gì chúng mày, chẳng qua là bồ bịch của nhau mà thôi!"
Không may cho Toại, do anh ta gọi điện trong phòng với Loan và mở loa ngoài cho Loan cùng nghe nên tất cả các cuộc nói chuyện đều bị Thuỷ ghi âm được. Thuỷ liền gọi điện thoại cho ông Trường và ông Ân nghe. Ông Trường thì chưa thể làm gì được nhưng ông Ân thì tức đến bầm gan tím ruột. Ông gọi điện lên Sapa yêu cầu Toại và Thành Kế toán trưởng ngay lập tức trở vào Sài Gòn để họp Cty (lúc này ông Trường và ông Toà đang ở Sài Gòn). Ngày 15/10/2005, ông Lê Quốc Ân họp với ban lãnh đạo Cty Việt Tiến. Nội dung cuộc họp là xem xét kỷ luật Toại do hành vi gây mất đoàn kết nội bộ. Bằng chứng là băng ghi âm các cuộc điện thoại giữa Toại với vợ tôi. Bất chấp sự phản đối quyết liệt của Toại, hình thức kỷ luật được đưa ra là cách chức Phó TGĐ thường trực và đẩy anh ta xuống làm Trưởng phòng Kỹ thuật. Dự kiến sau đấy ít hôm sẽ công bố sự vụ trong toàn Cty. Toại tìm mọi cách để xoay chuyển tình hình. Anh ta biết chỉ có vợ tôi mới có thể tác động tới ông Ân nên liền gọi điện cho vợ tôi nhưng cô ấy không cầm máy. Toại nhắn tin nhưng vợ tôi không trả lời. Sau cùng biết không thể xoay chuyển được gì anh ta gọi điện cho vợ tôi từ số máy khác và nói toạc móng heo, "Tao không cần làm ở Việt Tiến nữa. Chúng mày muốn chết thì tao cho chết hết! Hãy chờ đấy, sắp có tin đặc biệt đấy!" Vợ tôi báo tin này cho ông Ân và ông Trường. Hai ông có vẻ coi thường lời đe doạ đó nhưng cũng nhắc nhở vợ tôi từ nay trở đi phải cẩn thận.
Đúng như lời Toại nói, sáng Chủ nhật ngày 23/10, dưới nhà tôi bỗng có nhiều tiếng người ồn ào (lúc này chúng tôi đang đóng cửa trốn trong nhà, lý do sẽ kể dưới đây). Thì ra một tay anh chị tên là Công cùng hai tên đàn em hắn đến tìm vợ tôi để "hỏi tội." Khi thấy nhà đóng cửa hắn liền sang nhà bà Mùi kế bên nói xấu với mọi người về vợ tôi. Hắn trở về nhà và sau đó hắn gọi điện cho biết vợ tôi đã nhắn tin "có vấn đề" vào điện thoại của hắn, vợ hắn đọc được tin nhắn đó và làm ầm ỹ nhà cửa lên. Vợ tôi nói là không hề nhắn tin gì cả và sẽ gọi cho Trọng (vẫn đang nằm ở Đồ Sơn, Hải Phòng do kẹt hàng) để làm rõ vấn đề. Vợ tôi gọi ngay cho Trọng và Loan thì mới biết hoá ra tin nhắn đó là do Loan gửi và mạo danh vợ tôi. Loan còn trâng tráo nói, "Chừng đó còn chưa nhằm nhò gì, hãy chờ đấy!" Lúc này Trọng biết là Toại và Loan đã giở trò và thấy không thể nương tay với ả này được nữa. Chiều hôm đó (23/10), Trọng tức tốc từ Đồ Sơn phi lên Sapa đồng thời gọi điện cho chồng ả ở Hà Nội biết để anh này cùng lên Sapa chứng kiến bộ mặt thật bấy nay của ả, ăn chơi trác táng với người này người khác nhưng cứ một hai với chồng là đi công tác này công tác nọ, bỏ mặc chồng con ở nhà (vợ chồng ả có một đứa con trai độ 2, 3 tuổi). Loan cầu xin Trọng tha thứ và đừng cho chồng biết nhưng đã quá muộn. Trưa thứ Hai, 24/10, Trọng và chồng Loan đưa ả về đến Hà Nội. Bấy giờ ả mới khai thêm là Toại đã thuê một nhóm xã hội đen nhằm "xử" vợ tôi và Thuỷ gần một tuần nay và chính ả là người liên hệ nhóm xã hội đen ấy cho Toại, với giá 100 triệu VNĐ. Ả còn gửi ảnh vợ tôi do ả chụp hồi cả hai còn làm ở Tràng Tiền Plaza lưu trong điện thoại của ả về cho bọn này để nhận diện. Đây là một băng nhóm được tổ chức rất chặt chẽ, mỗi khi có một tên gia nhập nhóm là chúng tổ chức uống máu thề. Công an bắt được tên nào thì tên đó nhận hết tội, tuyệt đối không khai báo ra đồng bọn, nhất là những tên đầu đảng. Vì thế, mặc dù đã đánh hơi được sự tồn tại của băng nhóm này cũng như đã có nhiều án mạng thương tâm do chúng gây ra nhưng Công an vẫn bó tay, chưa lần ra tận gốc. Đến lúc này ai nấy đều hết sức sửng sốt. Hoá ra bọn chúng đã truy tìm vợ chồng tôi gần cả tuần mà chưa có cơ hội ra tay. Chính nhờ những tình tiết ngẫu nhiên sẽ kể dưới đây mà vợ chồng tôi đã nhiều lần thoát chết trong gang tấc.
Giai đoạn này Cty Việt Tiến đang gặp nhiều khó khăn, bị ngân hàng đòi tiền rát do quá hạn và không cho vay tiếp. Hoạt động kinh doanh đình trệ vì hàng hoá không xuất khẩu được, doanh số bán trong nước không đáng kể. Các hợp đồng do vợ tôi ký thì phần lớn các vị lãnh đạo không đưa về Cty mà bán hết ra ngoài sau đó chia nhau đút túi và ném vào các dự án bất động sản đang nằm chờ vốn. Thời gian này vợ chồng ông Trường đang xung khắc, bà thì nghi ông bồ bịch này nọ còn ông thì nói bao nhiêu tiền đưa về bà đều đem cho vay nặng lãi hết mà chẳng đoái hoài gì đến ông.
Ngày 4/10/2005, ông Trường và Toà (tức Xuân) từ Sapa về Hà Nội để vào Sài Gòn giải quyết một số việc Cty (hai ông Việt kiều kia vẫn chưa chịu rời Sapa) đồng thời dự định bán một căn biệt thự của ông Trường đứng tên Toà, giá trị khoảng 7-8 tỷ VNĐ, lấy tiền ra Hà Nội cho vợ chồng tôi mua nhà. Hai ông lúc này hết sạch tiền và phải nhờ tôi, qua vợ tôi, mượn giúp 5 triệu VNĐ để mua vé máy bay, theo kế hoạch sau vài hôm sẽ bay ra lại. Tuy nhiên, ngày 6/10 ông Nguyễn Di Niên điện thoại cho ông Trường báo là cuối tuần sẽ vào Sài Gòn (ông Trường đang nhờ ông Lê Công Phụng và ông Nguyễn Di Niên để xin cho tôi vào làm ở Vụ Bắc Mỹ, Bộ Ngoại giao, xem như đấy là món qua tặng con rể). Thế là kế hoạch ra ngay Hà Nội của ông Trường bị hoãn lại và ông phải lên chương trình để thù tiếp vị ngoại trưởng. Đầu tiên là đón tiếp và chiêu đãi tại Sài Gòn, sau đó ông bộ trưởng đề nghị ra Nha Trang nghỉ mát (lúc này bà vợ mới đưa cho ông Trường 1 tỷ VNĐ). Sau khi nghỉ ngơi thoả thuê tại Nha Trang, ngày 12/10 ông Niên lại gợi ý lên Đà Lạt (ông này thường phải hoá trang khi đi du hý). Ngày 13/10, thứ trưởng thường trực Lê Công Phụng cũng bay vào Sài Gòn và lên luôn Đà Lạt. Ông Trường trực tiếp đưa cho ông Niên 500 triệu VNĐ, ông Phụng 200 triệu VNĐ (trước đấy ở Hà Nội ông đã rút tiền từ tài khoản đưa cho ông Niên 200 triệu và ông Phụng 50 triệu) và lại hết sạch tiền. Ông phải nhờ ông Toà chạy vạy dưới Sài Gòn mang lên tiếp ứng (do nhà vẫn chưa bán được). Mãi đến sáng Chủ nhật ngày 16/10 tất cả mới giải tán, trở về Sài Gòn và chiều hôm ấy hai ông bộ trưởng và thứ trưởng bay ra Hà Nội. Vụ này ông Trường tiêu tốn tổng cộng khoảng gần 1,5 tỷ VNĐ (kể cả tiền may complet, mua điện thoại... cho ông bộ trưởng) và nếu không có những biến cố tiếp theo thì tôi đã đi làm ở Bộ Ngoại giao từ tháng 12/2005.
Chiều 16/10 ông Trường gọi điện cho vợ tôi nói là ông hết sạch tiền và đang cần gấp 10 triệu, hỏi vợ tôi có giúp gì được không, bởi vợ ông không chịu đưa thêm tiền cho ông nữa. Vợ tôi nói là không có tiền và cũng không biết mượn ở đâu ra. Ông Trường lại hỏi là có cách gì giúp ông được không. Vợ tôi suy nghĩ và nói chỉ có cách duy nhất là mượn xe máy của người yêu bạn tôi rồi đem đi cắm. Đang cần tiền gấp và không thể muối mặt đi mượn tiền người khác nên ông nói với vợ tôi hãy giúp ông, chỉ vài hôm nữa là ông sẽ ra Hà Nội (do có khả năng sắp bán được nhà) và chuộc xe về, song với điều kiện là vợ tôi không được cho tôi biết. Thế là chiều 16/10, vợ tôi mượn chiếc xe Wave Alpha của Tú, người yêu bạn đồng môn đại học với tôi, nói dối là mượn cho tôi đi công việc, rồi đem đi đặt được 7 triệu, cộng thêm 3 triệu có sẵn thành 10 triệu và sáng hôm sau gửi vào tài khoản ông Trường. Ban đầu vợ tôi không cho tôi biết những chuyện trên, bởi ông Trường yêu cầu như thế. Nhưng vài hôm sau tôi thấy Tú đến tìm vợ tôi và cô ấy có ý tránh gặp. Tôi sinh nghi và vặn hỏi. Lúc này vợ tôi mới thú nhận việc mượn xe bạn đi cắm. Tôi không thể trách móc vợ tôi nhiều khi đặt vào hoàn cảnh ông Trường đang làm mọi việc để giúp đỡ vợ chồng tôi như thế. Tuy nhiên, việc bán nhà của ông Trường lại gặp khó khăn do thị trường đang hồi ế ẩm, mặc dù vẫn có một số người hỏi nhưng không có vẻ mặn mà hay trả giá quá thấp. Ông Trường về nhà lại bị bà vợ ca thán, tình hình kinh doanh không mấy sáng sủa, tiền bạc sạch bách mà vợ không chịu đưa cho, cộng thêm chứng cao huyết áp... khiến ông suy nhược nặng. Ông bực mình bỏ nhà ra thuê khách sạn ở. Bí bách quá ông mới đồng ý bán ngôi biệt thư trên cho một người khách đã ngã giá 4,7 tỷ VNĐ (mặc dù giá trị của nó chừng 7-8 tỷ VNĐ). Thế nhưng bên kia biết ông đang rất cần tiền nên lại ra sức ép. Tưởng như đã nhất trí với cái giá trên nhưng khi gặp nhau lần cuối tại ngôi biệt thự đó bên mua lại chỉ trả 3,2 tỷ VNĐ. Điên tiết, ông Trường đập tay xuống làm vỡ tan cái bàn kính và tống cổ ngay kẻ mua nhà ra cửa. Vợ chồng tôi rất nóng ruột và thất vọng nhưng cũng đành phải nói với ông là việc cắm xe máy không có vấn đề gì để ông yên tâm.
Mọi chuyện đen đủi không chỉ có thế. Lường trước được rằng việc bán nhà của ông Trường sẽ không dễ dàng nên cực chẳng đã và cũng để khỏi bị động, vợ tôi gọi điện cho ông Ân nói rằng cần mượn gấp 30 triệu VNĐ. Rủi thay, khi gọi điện cho ông Ân (chiều 20/10) thì ông lại đang trên đường ra sân bay vào Sài Gòn để công bố quyết định kỷ luật Toại và tới 22/10 mới ra (đến hôm ông Ân ra thì vợ ông lại về quê ở Ninh Bình nên ông cũng không có đủ số tiền kia luôn). Chưa hết, ngay sau khi gọi điện cho ông Ân, vợ tôi lại quyết định gọi cho ông Hoàng Trung Hải, người vừa mới nhận vợ tôi làm con nuôi. Tuy nhiên, ông Hải nói là phải đầu buổi chiều hôm sau (21/10) ông mới có 30 triệu cho vợ tôi mượn. Nhưng rồi cả ngày hôm sau ông Hải bận túi bụi, đi công tác khỏi Hà Nội, mãi đến 7h tối mới về tới nhà và lúc đó vợ tôi không thể tới nhà ông ấy để lấy tiền được. Ông Hải xin lỗi và hẹn vào sáng mai. Ông nhắn tin là không thể thất hẹn lần nữa. Để giữ đúng lời hứa, ông tắt hết đèn trong nhà làm như vẻ ông đi vắng để tránh khỏi ai đến tìm làm lỡ kế hoạch. Thế nhưng cuối cùng, qua đường dây công vụ, 5h sáng hôm sau ông đã phải có mặt trong đoàn tháp tùng Thủ tướng Phan Văn Khải công du phía nam. Lịch trình bay ra cũng bị trễ và mãi đến tối Chủ nhật ngày 23/10 ông mới về tới nhà. Điều này có nghĩa là bằng mọi cách nhưng vợ chồng tôi vẫn không thể xoay ra tiền để chuộc xe về trả cho bạn. Mọi thứ dường như cứ luẩn quẩn và đen đủi đến mức không sao hiểu nổi.
Thế là suốt mấy hôm đó vợ chồng tôi đóng kín cửa nhà, khoá ngoài, vờ như đi vắng để tránh Tú. Chuyện đi chợ thì đã có một đứa giúp việc tên là Phượng, con nhà hàng xóm của ba tôi ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, mới ra nhờ xin việc làm, trong thời gian chờ đợi thì giúp việc cho vợ chồng tôi. Khi Tú gọi điện thoại hoặc đòi đến nhà thì vợ tôi đành phải bịa ra chuyện này chuyện nọ, chứ không thể nói là xe đang cắm, còn tôi thì lánh mặt đi. Cuối cùng thì Tú cũng hết kiên nhẫn và sáng 23/10 Tú đã đem khoá đến khoá luôn cửa ngoài nhà tôi. Vợ chồng tôi đang trốn trên nhà nhưng không thể làm gì được. Vì thế mỗi khi ra ngoài là phải nhờ gia đình hàng xóm phía sau nhà mượn giùm cho cái thang để lên xuống và đi qua vườn nhà họ.
Sáng thứ Hai ngày 24/10, vợ tôi ra khỏi nhà bằng con đường này, có ô tô đón ngoài ngõ, để đến trụ sở Vinatex ký hợp đồng với một khách hàng mới do khách hàng trước giới thiệu. Hợp đồng này có giá trị 30 tỷ VNĐ - cần biết rằng kỷ lục hợp đồng (phi quota) mà Trưởng phòng Marketing Vinatex trước đó ký được chỉ là là 5,7 tỷ VNĐ. Ký xong hợp đồng, ông khách còn thưởng cho vợ tôi 7 triệu VNĐ, nhờ đó vợ tôi mới có tiền để chuộc xe máy ra trả cho Tú. (Lúc này vợ ông Ân vẫn chưa về nên ông Ân không có tiền, trong túi chỉ còn 1 triệu đồng. Ông nói là nhờ trợ lý của mình đi vay nhưng sau cũng không thấy. Ông Hải thì sáng thứ Hai họp giao ban ở Văn phòng Bộ Công nghiệp, vả lại vợ tôi đang giận nên cũng không hỏi đến luôn.)
Cùng buổi sáng hôm đó, Trọng và chồng Loan đưa ả ta từ Sapa về Hà Nội. Đến lúc này vợ chồng tôi mới biết là suốt gần một tuần qua vợ chồng tôi đang bị bọn xã hội đen theo dõi và chờ thời cơ ra tay. Song nhờ những sự cố ngẫu nhiên như đã kể ở trên mà vợ chồng tôi đã thoát chết một cách hy hữu. Chính bọn này sau khi bị Công an bắt đã khai là "chưa thấy có vụ nào mất nhiều thời gian và công sức như vụ này!" Có những lần chúng tôi ở trên nhà nhìn ra ngõ qua khe cửa sổ thì thấy có một vài tên cứ ngó lên nhà rồi gọi điện thoại cho ai đấy, lúc ấy chúng tôi cứ nghĩ đấy chắc là bạn Tú đến tìm hỏi xe! Lúc này, ông Hải và ông Ân đã báo Công an về vụ việc. Đơn tố cáo do Thuỷ đứng tên, nội dung là Toại buôn ma tuý và thuê xã hội đen giết người. Công an Hà Nội cử người vào Tp HCM tìm bắt Toại. Trọng một mặt bố trí tay chân theo dõi bảo vệ vợ chồng tôi, một mặt quyết định bay vào Sài Gòn phối hợp với Công an để truy tìm Toại (Trọng thực ra cũng là một tay anh chị có hạng, có chân rết tận Sài Gòn). Nhưng lúc này trong túi Trọng không còn một xu và đang buôn bán hàng lậu nên nợ nần tùm lum, kể cả xe máy của vợ chồng tôi cũng bị anh ta bán ở Hải Phòng. Vợ tôi cũng không biết xoay xở đâu ra, mà việc thì rất cần kíp, chậm trễ là dễ mất mạng như chơi. Thế là trưa hôm đó (24/10), vợ tôi đành phải mượn chiếc xe Dream cũ cùng giấy tờ của bạn bố tôi tên là Hoàn, nói dối là để đi ký hợp đồng, rồi đem ra tiệm cầm đồ cắm được 8 triệu đồng đưa cho Trọng để ông này bay vào Sài Gòn phối hợp cùng đàn em truy tìm Toại giao cho Công an. Đến lúc đó vợ tôi vẫn chưa cho tôi biết chuyện đang xẩy ra để tôi khỏi lo lắng. Việc mượn xe chú Hoàn vợ tôi cũng giấu vì sợ bị tôi mắng như chuyện xe của Tú, đồng thời cũng nghĩ là Trọng sẽ ra ngay trong ngày và kịp xoay tiền chuộc xe ra.
Xế trưa hôm ấy (24/10) vợ tôi mới về tới nhà. Tưởng như mọi chuyện rắc rối đã qua và để mừng hợp đồng mới ký, vợ chồng tôi quyết định đi taxi đến nhà hàng Huế ở góc ngã tư Láng - Láng Thượng ăn trưa. Sau này chúng tôi mới biết là hôm ấy có hai toán đang bám theo mình. Một toán là bọn xã hội đen do Toại thuê đang theo dõi và chời thời cơ ra tay, còn toán kia là tay chân của Trọng đi theo để ngầm bảo vệ chúng tôi. Tối hôm ấy vợ chồng tôi đóng cửa đi ngủ sớm và không có chuyện gì xẩy ra. Sáng hôm sau thì chúng tôi được biết là nhà mình đang bị theo dõi rất chặt chẽ và có nhiều khả năng tối hôm ấy bọn chúng sẽ ra tay đột nhập, bởi chúng rình rập đã lâu mà chúng tôi thì hầu như không ra khỏi nhà. Chiều hôm đó, Toại và Loan bị Công an bắt nhưng hai tên này vẫn chưa chịu khai báo gì nên vẫn chưa tìm được tên đầu đảng XHĐ để thoả hiệp. Đến chiều tối ông Lê Quốc Ân mới liên lạc được với ông Hoàng Trung Hải qua điện thoại nội bộ của Văn phòng Bộ (di động không gọi được). Ông Hải lập tức báo cho người bạn Công an để nhờ người này bố trí lực lượng bắt bọn XHĐ tại chỗ, còn đích thân ông thì cải trang thành một người thợ điện trong bộ đồng phục công nhân điện lực đến ngay ngõ nhà tôi. Ông Ân thì cải trang thành một gã lang thang vật vờ gần nhà tôi. Bọn XHĐ kéo đến khá đông, chúng cứ giả vờ lượn lờ hoặc đi theo từng cặp trai gái vờ tâm sự ven bờ hồ hay trong ngõ tối. Vợ chồng tôi được lệnh tắt hết đèn, đóng chặt cửa, ngắt điện thoại cố định. Công an đã bí mật triển khai, chờ bọn chúng động thủ là ập vào bắt quả tang. Trong nhà tôi lúc này có 4 người, ngoài hai vợ chồng và Phượng còn thêm Oanh, ở gần nhà ba tôi trong Cẩm Xuyên, học trường Trung cấp Điện lực Sơn Tây, ra trú nhờ mấy hôm để ôn thi tốt nghiệp. Đến 2h sáng, khi chúng tôi đã ngủ thiếp từ lúc nào chẳng hay, phát hiện thấy chúng đập cửa sắt, Công an liền ập vào. Bọn chúng chạy tán loạn, cả một số tên đã ém sẵn trên mái nhà, Công an chỉ tóm được hai tên, thu được một khẩu súng, hai lọ axít, mấy cây dao. Mãi tới 4h sáng hôm đó ông Hải và ông Ân mới rời khỏi hiện trường về nhà.
Sáng thứ Tư, 26/10, tôi đang ngủ thì nghe ồn ào dưới nhà. Hoá ra là vợ chồng chú Hoàn bạn bố tôi đến đòi xe máy (lúc này tôi vẫn chưa biết là vợ tôi mượn xe máy cô chú đi cắm). Vợ chồng cô chú đã đến từ sớm và đón sẵn ngoài cổng. Khi vợ tôi đến Văn phòng Vinatex để chỉnh sửa một số nội dung bản hợp đồng đã ký hôm thứ Hai với khách hàng thì gặp cô chú ngoài cổng và hai người kiên quyết không cho vợ tôi đi đâu nữa. Sau khi cô chú vào nhà, vợ tôi mới chạy lên kể thật sự tình với tôi và nói thêm là Trọng hiện đang xoay tiền để chuộc xe. Lúc đó tôi không dám xuất hiện vì không biết ăn nói với cô chú thế nào, đành chui vào tủ để trốn còn vợ tôi phải ở nhà vừa đám phán với khách hàng qua điện thoại vừa liên lạc với ông Trọng thúc giục xoay tiền để chuộc xe cho cô chú (hai người vẫn không cho vợ tôi ra khỏi nhà). Một lúc lâu sau, chú Hoàn nghi là tôi đang ở trên nhà và lên phòng, lựa cớ mở tủ và phát hiện tôi đang đứng trong đó. Vừa xấu hổ vừa giận giữ, tôi liền tát cho vợ tôi một cái, vợ tôi quỳ xuống xin lỗi. Tôi quay sang xin lỗi cô chú và mong cô chú thông cảm (sau đó tôi có kể sự tình cho vợ chú Hoàn nghe nhưng dường như cô ấy không tin vào câu chuyện có vẻ hoang đường đó).
Trọng nợ nần tùm lum nên không xoay đâu ra tiền, mãi gần trưa mới mượn được một chiếc xe máy đưa đi cắm được 4,5 triệu đồng, do không có giấy tờ xe. Oanh cho vợ chồng tôi mượn 1,5 triệu VNĐ tiền dành để ôn thi tốt nghiệp. Vẫn chưa đủ mà phải đưa thêm cả tivi và màn hình máy tính đi các thêm vào chỗ cắm xe mới lấy được xe ra để trả cho cô chú. (Không dám mượn tiền ông Hải vì tối hôm trước ông đã phải bồi dưỡng tại chỗ cho lực lượng Công an 50 triệu đồng). Cũng cần kể thêm là sau khi ký hợp đồng 30 tỷ VNĐ với khách hàng, tôi đã bày cho vợ là đề nghị ông Ân chuyển 1/2 giá trị hợp đồng cho Việt Tiến, nhằm giúp Việt Tiến trong giai đoạn khó khăn - coi như là món quà chia tay Cty - và để ông Trường có tiền gửi cho vợ tôi trang trải nợ nần và chi tiêu. Lúc đầu ông Ân đồng ý, cả ông TGĐ Mai Hoàng Ân cũng nhất trí, nhưng sau đó bà Mai Kế toán trưởng lần lữa mãi không chịu chuyển khoản, lấy lý do là Vinatex đang nợ đầm đìa.
Ngày hôm đó, Trọng tiếp xúc với nhóm xã hội đen kia và đưa cho bọn chúng 100 triệu VNĐ (tiền do ông Hải đưa) để thỏa hiệp và kể từ hôm ấy ông Hải đã thuê vệ sỹ bí mật theo dõi và bảo vệ vợ chồng tôi. Buối tối, thấy tình hình có vẻ yên, vợ chồng tôi cùng Phượng và Oanh đi xem phim ở Trung tâm Chiếu phim Quốc gia trên phố Láng Hạ. Tuy nhiên, ngày hôm sau (thứ Năm, 27/10) tình hình lại trở nên tồi tệ. Toại và Loan tiếp tục thuê nhóm XHĐ khác để "xử" bằng được vợ tôi và Thủy (vì nhà giàu nên chúng được tạm giam theo chế độ đặc biệt, vẫn có điện thoại di động liên lạc ra ngoài, gia đình Toại bảo lãnh luôn cho cả Loan). Lần này chúng ra giá 500 triệu VNĐ với yêu cầu "muốn làm gì thì làm." Điều này cũng có nghĩa là vợ tôi cầm chắc cái chết, còn với tôi thì nếu cảm thấy "vướng" hoặc để bịt đầu mối thì chưa biết chuyện gì sẽ xẩy ra. Trước đó có một tay giám đốc doanh nghiệp đã thuê bọn này trả thù một nữ nhân viên cũ của mình cũng với yêu cầu "muốn làm gì thì làm," bọn chúng đã bắt cóc, hãm hiếp, sau đó giết chết cô gái. Căn nhà Thủy thuê ở Hà Nội (do giận gia đình ra thuê riêng) bị bọn chúng phá cửa vào đập phá tan tành và viết lên tường "Tao sẽ giết mày."
Tối hôm đó, chúng tôi được lệnh đóng cửa, tắt điện, ngắt điện thoại cố định, không được động tĩnh. Cả ông Hải và ông Ân đều có mặt tại hiện trường. Lực lượng Công an theo kế hoạch 9h mới tới. Đầu buổi tối, chúng còn cho người vào giả vờ hỏi thăm, gõ cửa để xem có người ở nhà không. Chúng tôi ở trên nhà (4 người, cả Phượng và Oanh) cứ nơm nớp là nhỡ Công an đến muộn mà bọn chúng manh động thì chưa biết điều gì sẽ xẩy ra. May thay, xóm đông dân cư và nhộn nhịp khá muộn cũng như địa thế nhà không thuận lợi nên bọn chúng không dám động thủ sớm. Đến 2h sáng, phát hiện ra bọn chúng đang tìm cách phá khóa, Công an liền ập vào, bắt tại chỗ mấy tên và thu được một số vũ khí.
Chiều hôm sau, Trọng bị Công an tạm giữ vì bị Loan viết đơn tố cáo là buôn ma tuý. Toại và Loan cũng không dừng lại, quyết tìm mọi cách giết bằng được vợ tôi và Thuỷ. Chiều hôm ấy, ông Hoàng Trung Hải đến đón vợ tôi, dừng xe cách nhà một đoạn do trước ngõ người ta đang đào đường đặt ống thoát nước. Vợ tôi đi bộ lại phía xe thì phát hiện có hai tên rục rịch bám theo. Ông Hải ra hiệu cho vợ tôi chạy nhanh, lên xe và phóng đi luôn. Những vệ sỹ được thuê bảo vệ làm công tác cản địa phía sau. Hôm đó ông Hải và vợ tôi gặp một lãnh đạo Petro Vietnam, để đề nghị bố trí cho tôi vào làm Kế toán trưởng Petro Vietnam. Ông Hải đưa cho ông nàỵ 100 triệu VNĐ. Trước đó, ông Ân đã đồng ý đưa tôi về làm Kế toán trưởng Vinatex đồng thời cũng đã thông báo cho bà Mai Kế toán trưởng về việc chuẩn bị điều động bà này đi làm Giám đốc cơ quan đại diện của Vinatex ở Châu Âu. Tuy nhiên sau đó tôi nhận thấy hai vợ chồng làm một chỗ thì không thật hay lắm (vợ tôi vào làm Vinatex với một bộ hồ sơ lý lịch giả nên tôi vẫn có thể vào làm ở đấy và hai người xem như không biết nhau) và nhân cơ hội ông Hải đề nghị nếu muốn làm vị trí nào trong Bộ Công nghiệp thì ông sẽ giúp, vợ tôi nói với ông ấy là tôi "kết" một trong hai vị trí kế toán trưởng TCT Điện lực hoặc Petro Vietnam. Vị lãnh đạo Petro Vietnam đồng ý và hứa sẽ sớm thu xếp. Thời gian này tôi cũng tìm người để nhượng lại vị trí ở Bộ Ngoại giao nhưng chưa tìm được.
Nhận thấy nhà tiếp tục bị theo dõi gắt gao và xem chừng nếu tiếp tục ở trong nhà sẽ hết sức nguy hiểm, ông Hải quyết định cho vợ chồng tôi rời nhà thuê khách sạn ở. Khoảng 6h chiều hôm ấy (27/10), tôi báo với Phượng tìm đường mà trốn, tạm thời sang trú ở nhà bà cô nó bên Gia Lâm (Oanh khi đó đang ở nhà bạn), và cuống cuồng nhặt vội một ít đồ đạc cho vợ, nhưng đến lúc khoá cửa lại quên mất trước cửa. Ra đến cổng thì gặp Quỳnh con bà Mùi đang đi xe ra, thế là tôi nhờ Quỳnh chở sang đường Kim Giang rồi tới nhà nghỉ Nam Hải trên đường Nguyễn Trãi thuê phòng. Tối đến vợ tôi về, cả thể xác lẫn tinh thần gần như suy sụp, thậm chí trong đầu còn lởn vởn ý nghĩ tự tử. Ngày hôm sau (thứ Sáu, 28/10), ông Hải bận bịu công việc cả ngày.
Sáng thứ Bảy, 29/10, ông Hải gặp và tiếp hai ông Lê Hồng Anh và Nguyễn Khánh Toàn (Bộ trưởng và Thứ trưởng thường trực Bộ Công an), trình bày hoàn cảnh và đề nghị hai ông giúp đỡ (có cả vợ tôi cùng dự). Hai ông kia nhận lời, trước hết là thứ Hai tới sẽ cho thả Trọng ra. Ông Hải đưa cho mỗi người một phong bì 50 triệu VNĐ. Hôm đó ông Hải chạy vạy mãi mới xoay đủ tiền, phải cầm cả nhẫn cưới, dối vợ đem cả xe máy Piagio ở nhà đi cầm được 5 triệu (do không đem theo giấy tờ), đặt điện thoại cho nhà hàng... vì ngày nghỉ không rút được tiền ở ngân hàng. Đến buổi chiều, nhận thấy tình hình một lúc một phức tạp hơn và đặc biệt là được tin bố mẹ Toại đã tiếp cận ông Lê Hồng Anh, ông Hải quyết định ra tay trước và chi đậm. Ông đem ôtô của mình đi cầm được 1 tỷ VNĐ (xe kiểu limousin), không về nhà mà thuê khách sạn ngủ qua đêm (trên người không còn thứ gì nữa nên không dám về) và hẹn gặp hai ông Lê Hồng Anh và Nguyễn Khánh Toàn vào sáng hôm sau. Sáng Chủ nhật (30/10), ông Hải gặp hai vị này. Hai người đồng ý giúp đỡ là sẽ tìm cách khép Toại vào tội chết, riêng Loan sẽ xử sau. Phương á́n đưa ra là ông Hải sẽ mua ma tuý, đủ mức kết án tử hình, và người của hai ông sẽ lén đưa vào phòng tạm giam của Toại (anh ta nghiện ma tuý nặng) đồng thời bố trí Công an vào bắt quả tang.
Sau khi gặp, thống nhất phương án và chiêu đãi hai vị kia đồng thời đưa cho mỗi người 500 triệu VNĐ, ông Hải trở về khách sạn. Lúc này sức khoẻ của ông cũng gần như suy kiệt. Trên người không còn một thứ gì đáng giá, kể cả nhẫn cưới. Ông chưa biết phải trở về nhà và ăn nói với vợ thế nào, bởi bà vợ vốn rất hay ghen và lắm lời. Thấy ông có vẻ khả nghi (đi xe máy ra khỏi nhà mà không biết đi đâu, đưa cho ai...), bà đã gọi điện và khóc lóc với đứa con ông đang học ở nước ngoài. Vì thế bằng mọi giá ông phải lấy được chiếc xe máy về thì may ra ông mới về nhà yên ổn (bà đang nghi ông đưa xe cho bồ). Thế nhưng lúc này trong người ông không còn một xu, những nơi có thể vay được thì ông và người lái xe riêng đã hỏi đến. Từ tối hôm trước ông đã nhờ vợ tôi vay giúp ông 5 triệu VNĐ và vợ chồng tôi đã tìm đủ cách nhưng cũng chẳng được, những người có thể vay được thì mình lại đang nợ, cũng không thể đường đột đến mượn xe máy người ta rồi đem cắm, bởi riêng việc đột nhiên đề nghị mượn xe là người ta đã sinh nghi rồi. Lúc này ông Hải gần như suy sụp, ông lại mắc chứng huyết áp cao nên càng lúc sức khoẻ càng giảm sút. Vợ tôi gọi điện cho Diệp, bạn trước đây cùng làm nhà hàng với vợ tôi, có bằng trung cấp tài chính, mới ra Hà Nội làm cho một Cty TNHH ở Cầu Giấy, cậy nhờ giúp đỡ. Diệp cũng không biết xoay xở vào đâu vì không có tiền bởi hôm thứ Sáu vừa rồi vợ tôi đã nhờ Diệp mượn giúp 1,5 triệu để chi tiêu tạm. Nhưng vì quá thương và lo cho vợ tôi (vợ tôi phải nói dối là bị bọn XHĐ đe doạ, nếu không có ngay 5 triệu VNĐ thì sẽ bị giết) nên Diệp đã xoay đủ mọi cách có thể. Số là người yêu của Diệp (lúc ấy đang đi công tác Đà Nẵng) làm cho Công ty Kim's Oversea Vast International Corporation (KVC) của Hàn Quốc ở 134 Kim Mã - Hà Nội, và Diệp qua đó có biết tay giám đốc tên là Ye Seob Kim. Diệp phải đến lạy lục ông Kim, trình bày là có người bạn đang trốn ở khách sạn, dính dáng đến bọn mafia, cần gấp 5 triệu VNĐ nộp cho chúng, nếu không chúng sẽ giết chết.
Tay giám đốc này phần vì đã bị người Việt Nam lừa nhiều lần, phần vì nghe phiên dịch không rõ ràng nên không tin và không cho mượn tiền ngay. Ông ta đòi Diệp đưa đến gặp người bạn đang cần tiền của mình. Thế là Diệp đưa ông Kim cùng một người bạn Hàn Quốc khác và một người phiên dịch đến Nhà nghỉ Nam Hải gặp vợ tôi. Suốt gần hai tiếng đồng hồ, trình bày lần này đến lần khác, lạy lục như tế sao, cuối cùng ông ta mới chịu đưa cho Diệp 300USD và 500.000VNĐ để đưa cho vợ tôi. Tay phiên dịch giữ lại giấy biên nhận cùng chứng minh thư của Diệp, hẹn hôm sau, thứ Hai ngày 31/10, sẽ trả. Lúc này đã gần 1h chiều, vợ tôi vội lên taxi đến ngay khách sạn đưa cho ông Hải. Ông Hải lúc bấy giờ như cất được tảng đá đang đè nặng trên ngực, không quên cám ơn vợ chồng tôi.
Ngày thứ Hai, 31/10, sau khi được thả ra, Trọng liên lạc với ông Hải. Ông Hải rút tiền từ tài khoản được 200 triệu VNĐ và vay thêm từ một số người khác, đồng thời Trọng cũng vay nóng được 700 triệu nữa. Trọng tìm cách tiếp xúc với bọn XHĐ để thoả hiệp. Chúng đòi 500 triệu VNĐ, sau thương lượng xuống còn 300 triệu VNĐ, để huỷ hợp đồng giết người kia (thậm chí chúng còn đề nghị nếu cần thì sẽ bảo vệ cho vợ chồng tôi). Ngày hôm đó vợ tôi đến Văn phòng Vinatex ký một hợp đồng khổng lồ với khách hàng, lên tới 120 tỷ VNĐ. Vinatex thưởng nóng cho vợ tôi 30 triệu VNĐ. Vợ tôi nêu lý do việc gia đình để mượn của ông TGĐ Mai Hoàng Ân 70 triệu VNĐ (số tiền này ông Mai Hoàng Ân nói là thưởng riêng cho vợ tôi luôn), tổng cộng 100 triệu VNĐ và đưa cho ông Hải để lo công việc. Cùng ngày, Trọng đi mua ma tuý (hết 1 tỷ đồng) về đưa cho ông Hải. Lái xe riêng của ông Hải chuyển cho vợ tôi để cô ấy đưa cho người của hai ông Lê Hồng Anh và Nguyễn Khánh Toàn ngay tại phòng chúng tôi thuê tại nhà nghỉ Nam Hải vào chiều tối hôm đó. Chiều tối chúng tôi cũng chuyển phòng sang dãy nhà đối diện của nhà nghỉ Nam Hải. (Sau này vợ chồng tôi mới biết là bọn XHĐ cũng cho người đến các khách sạn, nhà nghỉ để truy tìm. Khi chúng đến nhà nghỉ Nam Hải thuê phòng gần phòng chúng tôi thuê trước đó thì chúng tôi vừa chuyển sang dãy bên kia!) Sang phòng mới, chúng tôi luôn phải tắt đèn trong phòng để không lọt ánh sáng ra ngoài, làm như trong phòng không có người.
Sáng thứ Ba, 1/11/2005, mẹ vợ tôi từ Quảng Trị ra, đem theo 2 triệu VNĐ mà trước đó vợ tôi gọi điện xin ông Bùi Đại Thắng, Giám đốc Cty Công trình Đô thị Quảng Trị. Buổi tối, bà quay về Quảng Trị theo tuyến Open Tour. Tối hôm đó, Công an ập vào phòng tạm giam Toại, bắt quả tang 2 gói ma tuý giấu trong phòng, nhưng anh ta nhất quyết không chịu ký vào biên bản. Toại nói, "Thà chết chứ không chịu ký!" Bởi anh ta biết nếu ký vào đấy là đồng nghĩa với việc tự nhận bản án tử hình. (Về sau phía Công an cho biết hai gói heroin này là rởm!?) Chiều thứ Hai và cả ngày thứ Ba tình hình nhà tôi có vẻ yên ổn. Ông Hải vẫn bố trí vệ sỹ bí mật bảo vê chúng tôi bên ngoài nhà nghỉ Nam Hải cũng như giám sát động tĩnh ở nhà tôi vì sợ chúng nổi điên xông vào phá nhà. Tuy nhiên, tối thứ Ba và ngày thứ Tư tình hình có vẻ phức tạp trở lại. Toại và Loan không biết bằng cách nào đó (có thể thông qua người nhà hoặc đàn em ở ngoài) biết được nhóm XHĐ kia đã bị mua chuộc nên lại thuê một băng nhóm khác, với giá cao hơn, tới 1 tỷ VNĐ, quyết giết bằng được vợ tôi và Thuỷ. Trong nhóm này có một tên trước đây từng là đàn em của Trọng, vì thế Trọng đã mua chuộc được tên này làm nội gián. Nhờ đó mọi động tĩnh của bọn này Trọng đều nắm được. Lúc này tôi có linh cảm dường như nơi ẩn náu đã bị lộ. (Về sau tôi mới biết đúng là bọn chúng đã phát hiện ra nơi vợ chồng tôi đang lẩn trốn. Số là Phượng sau mấy hôm sang nhà cô ruột ở Gia Lâm tá túc đến lúc không thể ở thêm được nữa nên đã gọi điện cho vợ chồng tôi rồi đến nhà nghỉ Nam Hải ở luôn. Oanh cũng liên lạc với vợ chồng tôi rồi đến nhà nghỉ Nam Hải lấy chìa khoá về nhà tôi để lấy đồ đạc còn để ở đấy. Khi nó về nhà và quay lại nhà nghỉ thì bị bọn chúng phát hiện, theo dõi. Vì thế chúng mới lần ra được nơi vợ chồng tôi đang lẫn trốn.) Trước tình hình đó, chiều tối thứ Tư ngày 2/11/2005, tôi quyết định và ông Hải cũng đồng ý để vợ chồng tôi về quê nương náu. 5h chiều hôm đó, thanh toán xong tiền nhà nghỉ, cả hai vợ chồng chỉ còn mấy chục nghìn trong túi. Chúng tôi gọi taxi, báo với mấy vệ sỹ chuẩn bị làm công tác cản địa nếu có kẻ bám theo (may mắn làm sao là bọn chúng đã không phát hiện ra), sau đó đi taxi về hướng Hà Đông, theo đường Văn Điển ra bến xe Nước Ngầm bắt xe về Quảng Trị. Lúc đầu tôi bảo Phượng hãy tạm về nhà nhưng vợ tôi thương nó nên thuyết phục tôi cho nó đi theo. Mãi chiều hôm sau mới về tới Quảng Trị, mẹ vợ tôi ra đón và thanh toán tiền xe. Hôm đó chúng tôi được biết, tối hôm trước bọn XHĐ đã ập vào nhà nghỉ Nam Hải, lên đúng số phòng mà chúng tôi vừa trả buổi chiều và đập cửa! Đúng một năm sau cái ngày định mệnh đó, ngày 2/11/2006, bé Thanh Mai cất tiếng khóc chào đời ở Đông Hà. Thật là một sự may mắn kỳ diệu và một sự trùng hợp hy hữu!
Lúc này ông Hải cùng những người trong cuộc khác mới dần dần biết được bản chất của Toại cùng gia đình anh ta. Gia đình Toại ở Sài Gòn vô cùng giàu có, tài sản lên tới hàng chục ngàn tỷ đồng. Bố mẹ anh ta đã có mặt ở Hà Nội để dùng tiền gõ mọi cánh cửa. Họ cũng đã gặp hai ông L.H. Anh & N.K. Toàn đặt vấn đề. Ông Hải nhận thấy tình hình ngày một phức tạp và nếu càng chậm trễ thì càng nguy hiểm, đặc biệt là sợ rằng bố mẹ Toại có thể mua chuộc được hai ông kia, "Người ta cầm được tiền của mình thì cũng có thể cầm được tiền của kẻ khác!" Vì thế ông Hải bèn tung ra quả đấm quyết định: đưa thêm cho hai ông Anh và Toàn mỗi người 5 tỷ VNĐ nữa. Số tiền này gồm 6 tỷ VNĐ vợ tôi mượn từ một tay Việt Kiều tên là Trương Đức Hải, vốn là khách hàng của vợ tôi từ hồi còn ở Cty Việt Tiến và đang chuẩn bị ký kết hợp đồng mới với Vinatex, và 3,2 tỷ VNĐ tiền ông Trường bán ngôi biệt thự đã nói ở trên. Ông Hoàng Trung Hải cùng với Cường (trợ lý vợ tôi) đứng ra nhận tiền bởi khi đó vợ chồng tôi đã về Quảng Trị. Tay Hải Việt Kiều này là người hết sức hâm mộ, thậm chí si mê vợ tôi, cứ một hai đề nghị ông Trường, và sau là ông Ân, rằng hãy gả con gái cho anh ta, vì lúc đầu cứ tưởng vợ tôi chưa có chồng. Thậm chí cả sau khi biết vợ tôi đã có chồng anh ta vẫn không thôi ý định ấy, sẵn sàng "trải vàng" cho vợ tôi "từ Việt Nam qua Mỹ".
Lúc này, đối tượng truy sát của bọn xã hội đen không chỉ có vợ tôi và Thuỷ mà còn cả ông Ân, ông Trường, ông Toà (tức Xuân) khiến những người này đi đâu cũng phải được bảo vệ hết sức cẩn thận, có những giai đoạn ăn nghỉ ngay tại cơ quan. Toà được tiếp quản chiếc ghế Phó TGĐ do Toại để lại, chỉ khác bây giờ Toà là Toà thật chứ không phải do Toại đội lốt. Nhà ông Ân trên phố Quang Trung, Hà Nội bị bọn chúng giám sát chặt chẽ, thậm chí còn bị ném đá vào nhà, khiến ông phải sơ tán vợ con, cho vợ về quê ở Ninh Bình, sau đó vào tận Quảng Bình lánh nạn. Trọng và Thuỷ đột ngột mất tích từ trước tết Bính Tuất. Số tiền mà gia đình Toại chuyển cho bọn XHĐ đã lên tới 4 tỷ VNĐ. Công an cũng đang nghi ngờ rằng không khéo Toại chính là tên cầm đầu băng nhóm XHĐ xuyên quốc gia kia, được tổ chức theo từng nhóm và từng cấp, và việc thông qua Loan hay người khác để thuê bọn này chỉ là động thái nhằm đánh lạc hướng. Bọn chúng theo dõi chặt chẽ nhà vợ chồng tôi, nhà mẹ ở Hà Nội và cả nhà ba tôi ở Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), đồng thời tổ chức nghe trộm điện thoại nhà tôi, nhà mẹ và cả nhà ba tôi (không hiểu bằng cách nào mà chúng lần ra được). Chúng còn tung tin thất thiệt nào là vợ chồng tôi vay mượn tiền bạc và nợ nần tùm lum, nào là vợ tôi quan hệ lăng nhăng với sếp của mình và bị bà vợ thuê người đánh ghen, rồi giả vờ người của Cty tôi đến tìm.... để dễ bề ra vào nhà tôi đồng thời khiến mọi người trong gia đình hoang mang, lo lắng.

Không lâu sau khi đưa cho hai ông Lê Hồng Anh và Nguyễn Khánh Toàn số tiền 10 tỷ VNĐ thì mọi việc đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của ông Hải. Bố mẹ Toại đã chạy đến những người như ông Đỗ Mười[1] v.v... và sự việc lúc này đã trở nên vô cùng phức tạp. Ông Hải đang tính chuyện đến nhà ông Đỗ Mười để nhờ ông này can thiệp thì, thật may mắn làm sao, những tình tiết ngẫu nhiên tiếp theo diễn ra ngay tại Quảng Trị lại đem đến hy vọng cho vợ chồng tôi.
Số là khi hai vợ chồng tôi chạy vào Đông Hà ẩn náu được vài hôm thì ông Hải gọi điện cho vợ tôi nói là đang kẹt tiền và nhờ mượn giúp khoảng 5 triệu gửi ra gấp cho ông (thực ra đây là một toan tính của ông Hải, sẽ nói rõ ở phần sau). Do ngày xưa làm nhân viên nhà hàng nên vợ tôi có nhiều mối quan hệ với những vị có “máu mặt” của tỉnh Quảng Trị và phần lớn đều là những người quý mến vợ tôi và giàu hảo tâm. Trong số này có ông Bùi Đại Thắng, giám đốc Công ty Công trình Đô thị và ông Đào Duy Thanh, Cục trưởng Cục Thuế là hai người thường giúp đỡ vợ tôi. Đặc biệt, ông Thắng là người giúp đỡ vợ tôi một cách vô tư từ thời vợ tôi còn làm nhân viên ở nhà hàng Thắng, nhà hàng Lạc Dương, kể cả cho đến sau này vợ tôi ra Hà Nội, ông vẫn thường động viên và thỉnh thoảng lại gửi tiền giúp vợ tôi, mỗi khi có chuyện gì vợ tôi vẫn thường tâm sự với ông. Đối với vợ chồng tôi, ông chẳng khác gì một ân nhân đáng kính. Vào đến Đông Hà không một xu dính túi, việc đầu tiên của vợ tôi là liên hệ với mấy người này để nhờ giúp đỡ. Tình cờ một lần vợ tôi gặp ông Vũ Trọng Kim, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị, mới chuyển ra làm Phó Ban Dân vận Trung ương, mà theo lời vợ tôi là một người rất có đạo đức và tốt bụng. Ông Kim trước đây đã được vợ tôi tiếp nhiều lần ở nhà hàng Lạc Dương nên quen biết và quý mến cô ấy. Vợ tôi ngỏ lời “xin” ông Kim 5 triệu đồng, lấy lý do là có việc gia đình và được ông đồng ý giúp đỡ (số tiền này sau đấy vợ tôi gửi vào tài khoản cho ông Hải). Tiện thể, ông Kim mời vợ tôi tiếp một đoàn khách từ Hà Nội vào, đó chính là đoàn do ông Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đang ở thăm và làm việc tại tỉnh Quảng Trị vào cuối tháng 11/2005. Hôm đó, ngoài ông Dũng, ông Kim còn có ông Lê Hữu Phúc, Chủ tịch tỉnh Quảng Trị, cùng một số nhân vật “tai to mặt lớn” khác. Vợ tôi giữ kín không cho mọi người trong này biết mình đang giữ vị trí trưởng phòng Marketing của Vinatex (một phần vì có nói cũng mấy ai tin).
Hôm đó, vợ tôi ngồi cạnh ông Dũng và dần dần thu hút được sự chú ý cũng như cảm tình đặc biệt của ông. Giữa chừng buổi tiệc thì ông Hải gọi điện cho vợ tôi. Vợ tôi nói với ông Hải là đang ngồi với ông Dũng, còn ông Dũng nghe qua điện thoại giọng nói quen quen liền hỏi cô ấy người đó là ai, vợ tôi đáp đấy là ông Hải, Bộ trưởng Công nghiệp, bố nuôi của mình. Ông Dũng liền cầm điện thoại nói chuyện với ông Hải. Lúc này mọi người mới biết vợ tôi đang là trưởng phòng Marketing của Vinatex. Sau buổi tiệc hôm đó, ông Dũng tỏ ra hết sức quý mến vợ tôi và đề nghị nhận cô ấy làm con nuôi. Đích thân ông Dũng mua tặng vợ tôi một chiếc sim điện thoại mới. Hôm sau, ông Dũng cùng vợ tôi vào Huế đón một phái đoàn quan trọng khác vào thăm Huế và Quảng Trị - và hình như là để bàn chuyện cơ mật gì đấy - gồm các ông Nông Đức Mạnh, Đỗ Mười và Phan Văn Khải. Tại buổi chiêu đãi, ông Dũng giới thiệu vợ tôi với mọi người, “Đây là con nuôi của tôi và không ai được nhận làm con nuôi nữa.” (Mặc dù lúc ấy vợ tôi vẫn chưa đồng ý chính thức là con nuôi của ông,. Việc vợ tôi đi theo ông Dũng một phần cũng là do ông Hải khuyến khích, định nhờ ông giúp giải quyết việc của vợ chồng tôi, lúc đó đang bế tắc.) Vợ tôi lại trở thành trung tâm của bữa tiệc nhờ năng khiếu tiếp chuyện bẩm sinh của mình. Sau bữa tiệc, cô ấy dành được nhiều thiện cảm từ các ông Nông Đức Mạnh, Đỗ Mười, Phan Văn Khải, thỉnh thoảng được các ông gọi điện hỏi thăm.


Khoảng một tuần sau (đầu tháng 12/2005), ông Mạnh lại vào Đông Hà tiếp. Lúc này thì vợ tôi đã chính thức nhận lời làm con nuôi của ông Dũng. Ông Dũng giai đoạn này thường có mặt ở Huế và Quảng Trị để chỉ đạo công tác phòng chống và khắc phục thiên tai. Ông cũng có thắc mắc là tại sao vợ tôi lại ở Đông Hà lâu thế, hay là vợ chồng giận gì nhau. Vợ tôi bấy giờ mới kể hết sự tình cho ông nghe. Ông Hải xác nhận câu chuyện và nhận định (theo điều tra riêng của ông) là bố mẹ Toại đã chạy đến tận ông Nông Đức Mạnh, với số tiền hối lộ hàng chục tỷ đồng. Ông Dũng trấn an vợ tôi, “Nó chạy bằng tiền được thì mình cũng chạy được chứ sao.” Ông Dũng, ông Hải biết là sự việc đang nằm trong tay ông Mạnh và bảo vợ tôi cố gắng chiều lòng ông này để được giúp đỡ. Hôm tiếp ông Mạnh, vợ tôi đi cùng Phượng và uống say quá phải nhờ Phượng chở về, cả mấy ông kia cũng say khướt. Hôm đó, vợ tôi cũng tranh thủ kể qua câu chuyện của mình cho ông Mạnh nghe, nhưng vì ồn ào và lại uống nhiều nên ông cũng chỉ nhập tâm láng máng.
Hôm sau ông Mạnh về Hà Nội, ông gọi điện cho vợ tôi và đề nghị nhận cô ấy làm con nuôi. Vợ tôi kể toàn bộ sự vụ cho ông nghe, ông không thể ngờ và nói, “Tưởng ai hoá ra lại là chuyện của con à?” Dù không muốn nhưng ông Dũng cũng đành chấp nhận cho ông Mạnh nhận vợ tôi làm con nuôi (việc này thì ông Hải khuyến khích). Ông Mạnh nói sẽ tìm cách trả số tiền hối lộ kia cho bố mẹ Toại để giúp đỡ vợ chồng tôi. Ông cũng giao cho ông Dũng đứng ra lo giải quyết vụ này cho ổn thoả bởi ở vị thế của mình ông Mạnh không thể ra tay.
Khi vào Đông Hà, mặc dù đã dặn dò kỹ nhưng ngày 19/12/2005, Phượng (đang tạm xin làm phục vụ ở nhà hàng nơi bà ngoại vợ tôi làm) vẫn gọi điện về nhà ba tôi. Tôi liền gọi điện về cho ba (gọi nhanh trong vòng 1 phút để tránh bị nghe lén) dặn là đừng đi tìm chúng tôi. Nhưng ba tôi đã không còn tin vợ chồng tôi nữa và ngay sáng sớm hôm sau ông bắt xe vào Đông Hà. Bọn XHĐ đang theo dõi nhà ba tôi liền bám theo. Chúng đi trên chiếc xe du lịch 16 chỗ, trên đó có đầy đủ các loại vũ khí. Nhưng vào đến Đông Hà, ba tôi xuống xe và loáng cái bắt xe ôm đi mất khiến chúng bị bất ngờ nên không theo kịp. Chúng vào nhà hàng ăn trưa và thuê khách sạn nghỉ lại. Qua tên nội gián trong nhóm này, Trọng đã đánh lạc hướng khiến chúng tưởng vợ chồng tôi đang trốn ở Huế nên sáng hôm sau chúng vào Huế truy tìm, để hai tên ở lại Đông Hà. Sau vài hôm ở Huế, cảm thấy như mò kim đáy bể nên chúng lại trở ra Đông Hà và nhân dịp Noel quay ra Hà Nội luôn. Khi bọn chúng vào Đông Hà, Trọng phát hiện ra (nhờ có nội gián) và cấp báo cho vợ tôi, vợ tôi liền gọi điện báo cho ông Hải và ông Dũng. Lúc ông Dũng nhận được tin, ông gọi điện cho ông Nguyễn Khánh Toàn, thứ trưởng thường trực Bộ Công an. Ông Toàn liền cùng mấy người nữa bay vào Huế và trở ra Đông Hà. Vợ tôi gặp ông Toàn, viết giấy tường trình toàn bộ sự vụ và được ông cho bố trí người bảo vệ nhà bà ngoại vợ tôi suốt mấy hôm cho đến khi bọn chúng trở ra Hà Nội.
Thời gian đầu mới vào làm ở Tràng Tiền Plaza vì sợ tôi lo lắng nên vợ tôi đã không cho tôi biết về hiện tình nơi làm việc. Nhưng sau đó, vợ tôi đã kể tường tận cho tôi được biết. Thời gian ấy, vợ tôi luôn là đối tượng theo đuổi của rất nhiều người, trăng hoa có mà cả với ý định nghiêm túc cũng có. Người đầu tiên phải kể đến chính là Trọng, anh ta đã tìm mọi cách hòng chiếm đoạt vợ tôi bằng được. Nhưng vợ tôi tỏ ra rất tỉnh táo và sớm cảnh giác, đề phòng, không bao giờ ăn uống bất kỳ thứ gì mà người ta mua cho. Biết dùng thủ đoạn đen tối không được, anh ta mới dùng chiêu mưa dầm thấm sâu, hễ có dịp thì thổ lộ là ao ước có được một người vợ như vợ tôi. Vợ tôi đã thẳng thắn và luôn giữ khoảng cách với Trọng, khiến anh ta càng thêm khâm phục và tôn trọng. Chính vì thế mà về sau Trọng đã hy sinh vị trí Giám đốc Chi nhánh Hà Nội cho vợ tôi và khi cơ sự xẩy ra đã không ngần ngại liều mình xông vào hang cọp để cứu vợ chồng tôi. Một lý do quan trọng khác khiến Trọng theo đuổi vợ tôi là vợ anh ta đã ngang nhiên đem bồ về hú hý ngay trong chính nhà mình mặc dù hai người đã có một đứa con trai, dĩ nhiên điều này một phần là cũng vì những trò ăn chơi trác táng của Trọng.


Tiếp theo Trọng là Thành, Kế toán trưởng Cty May Việt Tiến. Tay này thì say mê ra mặt, có lúc anh ta và Trọng còn ganh nhau lấy lòng vợ tôi. Anh ta nhờ Loan tác động tới vợ tôi và nói sẵn sàng mua nhà ở Hà Nội để vợ tôi về ở với gã. Đang lúc thiếu tiền, lại thấy nơi vợ tôi làm việc xem ra có nhiều cạm bẫy, chẳng khác gì một ổ truỵ lạc, nên tôi liền tương kế tựu kế, định chơi cho anh ta một vố rồi cho vợ nghỉ luôn. Tôi bày cho vợ là gọi điện cho tay Thành và yêu cầu phải đưa trước 7.000USD làm tin (lý do là để mua chiếc xe SH), sau đó anh ta muốn làm gì thì làm. Tất nhiên là do tôi ép chứ vợ tôi rất khó chịu khi cứ phải đóng kịch với tay này. Tuy nhiên, giai đoạn đó Thành đang buôn bán và kẹt hàng, chưa có tiền đưa cho vợ tôi, rồi sau đấy cô ấy lên làm Trưởng phòng Marketing Chi nhánh và được ông Trường nhận làm con nuôi nên chuyện không đi đến đâu. Ông Hoàng Trung Hải sau này cũng thế. Hồi đầu mới quen ông Hải, một lần Trọng gọi điện cho vợ tôi, không giấu nổi vẻ lo lắng và cho biết, “Ông Hải hỏi về em nhiều lắm. Cứ như người yêu quan tâm đến nhau vậy.” Ngoài ra còn rất nhiều những đối tượng khác là khách hàng, bạn hàng, kể cả mấy anh chàng Việt Kiều mà không ít trong số đó có ý định nghiêm túc hẳn hoi. Có kẻ ngay giữa thanh thiên bạch nhật mang hoa đến quỳ dưới chân vợ tôi ở Tràng Tiền Plaza (tay này ngay sau khi bước chân ra khỏi toà nhà liền bị Trọng đánh cho toé máu). Gã Việt kiều Trương Đức Hải kể trên là một minh chứng sống động khác. Tất nhiên là vợ tôi chẳng mảy may động lòng trước bao đề nghị hấp dẫn ấy. Đôi lúc tôi tự hào nói với bạn bè rằng vợ tôi yêu tôi bằng tất cả tình yêu trên thế giới này cộng lại. Điều này có thể là quá lời nhưng không phải không có cơ sở.
Mọi người có thể đặt câu hỏi là làm thế nào mà vợ tôi như từ một con vịt xấu xí bỗng hoá thân thành thiên nga vậy? Đầu tiên cần phải khẳng định rằng trong cuộc sống điều gì cũng có thể xẩy ra. Thứ đến, câu chuyện của vợ tôi tưởng như hoang đường nhưng thực ra lại có logic của nó. Hoạt động bán hàng, hay nói cho có vẻ sách vở và thời thượng là Marketing, không chỉ đơn thuần là một chuyên ngành của khoa học kinh tế mà còn là cả một nghệ thuật. Và đã là nghệ thuật thì không cứ gì phải qua trường lớp, mà trước hết để lĩnh hội được nó người ta phải có những tố chất bẩm sinh hay còn gọi là năng khiếu. May mắn thay những tố chất đó lại hội đủ ở vợ tôi. Có lẽ điều đáng khâm phục nhất ở vợ tôi chính là nghị lực phi thường của một cô gái thôn quê vừa mới bước vào độ tuổi trưởng thành (sinh ngày 11/11/1984). Chỉ có một nghị lực, sức chịu đựng phi thường cộng với một tình yêu vô bờ bến mới khả dĩ giúp vợ tôi vượt qua bao tháng ngày cực nhọc, đớn đau, trước những ánh mắt coi thường và thương hại của những người họ hàng bên nhà chồng. Đồng thời cũng chính tình yêu và nghị lực phi thường đó đã giúp vợ tôi vượt qua bao cạm bẫy trong cuộc sống, nắm bắt được cơ hội và đứng vững trong sóng gió khi tai ương chết người đổ ập xuống đầu. Ngoài ra, tâm hồn cao thượng, lòng nhân ái vị tha cùng thái độ xem thường tiền tài và bất phục trước quyền lực của vợ tôi cũng đủ khiến tôi nhiều lúc phải nhìn lại mình mà cảm thấy hổ thẹn. Chính nhờ những phẩm chất quá đỗi hiếm hoi trong thời buổi hiện nay đó mà cô ấy mới được nhiều người yêu quý đến vậy. Tôi cũng cần nói thêm là tuy làm đến Trưởng phòng Marketing của Vinatex nhưng vợ tôi vẫn không biết 1 tỷ VNĐ lớn như thế nào. Hay khi đàm phán hợp đồng vợ tôi cũng không biết tỷ lệ % có ý nghĩa là gì, mà chỉ biết thuyết phục khách hàng giảm giá càng ít % càng tốt. Tất nhiên là chỉ tôi mới biết được bí mật đó. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi vợ tôi chưa xong lớp 7 đã phải bỏ học chỉ vì không có tiền đóng học phí. Ngoài ra, việc tính toán và hoàn chỉnh hợp đồng đã có bộ phận khác lo.
Khi có người tìm đến Cty Việt Tiến hay Vinatex để dò hỏi về vợ tôi thì đều chỉ nhận được những cái lắc đầu vì chính ông Nguyễn Đình Trường và ông Lê Quốc Ân đã chỉ đạo xoá sạch toàn bộ dấu vết của vợ tôi. Hơn thế, hồ sơ của vợ tôi ở Vinatex chỉ là hồ sơ giả mạo từ tên tuổi đến bằng cấp. Hai ông này buộc phải xoá hết dấu vết vợ tôi vì bị Toại tố cáo Công an chuyện làm ăn gian dối của các ông. Ngoài ra điều này còn nằm trong tính toán của ông Hải, như sẽ kể dưới đây.
Thời gian tôi ở Quảng Trị, ông Nguyễn Tấn Dũng đã thu xếp để tôi qua Mỹ du học tại đại học Harvard, nhưng rồi tôi lại không đành lòng đi xa trong khi sự vụ chưa giải quyết xong, vợ tôi đang mang thai và đang rất cần tôi ở bên cạnh. Ngoài ra, ông Mạnh cũng có ý không ủng hộ việc tôi đi học vào thời điểm ấy. Việc đó vì thế phải gác lại.
Cần kể thêm là sau khi ông Mạnh nhận vợ tôi làm con nuôi, cả ba ông quyết định xây cho vợ chồng tôi một ngôi nhà. Diện tích khu đất là 6.000m2, nằm gần đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài. Ngoài ra ông Hải còn mua cho tôi một chiếc Mercedes hạng sang, đăng ký đầu năm 2006, còn ông Dũng thì xây tặng một toà cao ốc văn phòng nằm ở khu vực Liễu Giai. Cả ba tài sản này đều đứng riêng tên tôi – vì ông Mạnh cho rằng nếu đứng tên vợ tôi thì sẽ có điều tiếng không hay cho cô ấy, mặc dù ông Hải rất muốn ngôi nhà đứng tên riêng vợ tôi.
Theo kế hoạch, ngày 2/2 AL (20/3/2007) ông Mạnh và ông Dũng sẽ đi chuyên cơ vào Huế đón hai vợ chồng tôi ra. Đến đây thì lại xẩy ra một biến cố mang tính bước ngoặt. Hoá ra, Trọng và Thuỷ không phải ngẫu nhiên mất tích mà là do ông Hải bí mật đưa sang Trung Quốc ẩn náu. Trọng và Hải chính là cặp bài trùng trùm buôn bán ma tuý. Trọng buộc phải trốn khỏi Việt Nam vì bị Công an tróc nã ráo riết. Thế nhưng sau khi Trọng và Thuỷ biến mất một thời gian, ông Hải lại nói với ông Mạnh, ông Dũng và cả vợ tôi là chính ông Trường và ông Ân đã đưa Trọng bỏ trốn vì ba người này dính dáng đến ma tuý, sợ Trọng bị bắt thì sẽ khai ra hai ông này. Cũng chính vì thế mà ông Mạnh cấm vợ tôi liên lạc với ông Trường và ông Ân, đồng thời gián tiếp qua ông Hải nhắn nhe hai ông này không được liên lạc với vợ tôi nữa.
Thời gian vợ tôi làm ở Việt Tiến, Trọng đã lợi dụng sự thật thà, nhẹ dạ cả tin của vợ tôi để giúp anh ta buôn bán ma tuý mà mãi sau này vợ tôi mới biết. Khi gặp ông Hải trong buổi ra mắt tại Vinatex, vợ tôi cứ ngờ ngợ như đã gặp ông ta ở đâu. Hoá ra, có một lần ông Hải đã đến gian hàng Việt Tiến ở Tràng Tiền Plaza để nhận một cái cặp trong đó chứa ma tuý từ tay vợ tôi (lúc ấy vợ tôi không hề hay biết). Vợ tôi còn nhớ lúc đó ông Hải nở một nụ cười hiền lành và hỏi, "Bé có phải là bé Phương không?" Chuyện đó sau này vợ tôi mới kể cho tôi biết.
Nhẫn tâm hơn, khi đã là bố nuôi ông ta còn lôi kéo cả vợ tôi vào vòng tội ác đó. Một lần, vào khoảng tháng 5/2006, khi vợ tôi đang mang thai được 4, 5 tháng mà ông ta vẫn bảo vợ tôi bắt xe từ Đông Hà vào Huế để nhận hàng cho ông ta. Ông ta còn nói, "Thằng Hùng đã biết gì chưa, nếu chưa thì cho nó biết luôn." Vợ tôi về kể với tôi và định bụng đi nhưng tôi nói, "Ai làm gì thì làm nhưng mình tuyệt đối không được dính vào ma tuý, đấy là tội ác vô lương, đẩy người ta vào chỗ chết." Vợ tôi nghe lời tôi, nói lại với ông Hải và không đi nữa. Lúc đó tôi chỉ nghĩ đơn giản là chắc ông Hải cần tiền để giúp giải quyết chuyện của vợ chồng tôi, và đã dùng những đồng tiền tội lỗi từ buôn bán ma tuý để hối lộ cho chính hai vị đầu ngành công an theo kiểu "lấy mỡ nó rán nó" nên cũng không bận tâm nhiều về bản chất và động cơ của ông Hải.
Nguyên do Trọng bị truy đuổi là do Loan viết đơn tố cáo anh ta buôn bán ma tuý. Ngoài ra, khi vào Đông Hà gặp vợ tôi và bố trí người bảo vệ vợ chồng tôi thời điểm bọn XHĐ vào Quảng Trị truy tìm, giác quan nghề nghiệp đã khiến ông Nguyễn Khánh Toàn đánh hơi thấy trong vụ này có những con cá mập khổng lồ và vợ tôi là một đầu mối vô cùng quý giá - mặc dù chính ông ta đã nhận tiền (hơn 5 tỷ) từ ông Hải và chắc chắn là từ cả bố mẹ Toại. Bởi thế, thời gian sau đó ông Toàn tỏ ra quan tâm đặc biệt tới vợ tôi và thường xuyên vào Đông Hà công tác, mà mục đích chính là gặp gỡ vợ tôi để khai thác thông tin. Ông Toàn thường tìm cách hỏi vợ tôi là có biết gì về ông Hải không và hứa là nếu vợ tôi giúp ông vụ này thì sẽ được thưởng một khoản tiền lớn. Ông ta còn mua tặng tôi một chai rượu Hennessy và muốn gặp tôi để khai thác nhưng vợ tôi khéo léo thoái thác. Trên thực tế, ông Toàn cũng rất quý mến và cảm phục vợ tôi. Đầu tháng 1/2006, Vinatex tổ chức hội nghị ở Đà Nẵng, đích thân ông Toàn đã tháp tùng vợ tôi từ Đông Hà vào Đà Nẵng, ngủ lại một đêm và cùng dự Hội nghị này (để đảm bảo an toàn cho cô ấy trong thời gian bọn XHĐ vẫn đang truy tìm). Tham gia hội nghị có cả ông Lê Thanh Hải, lúc đó là Chủ tịch Thành phố HCM và ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng. Ông Nguyễn Đình Trường lúc này mới mổ tim; hơn nữa ông Trường cũng như ông Lê Quốc Ân đều đang bị người của Toại truy lùng nên cả hai ông đều không dám xuất đầu lộ diện. Trong Hội nghị, vợ tôi đại diện cho Công ty May Việt Tiến (lúc này vợ tôi đã xin thôi việc tại Vinatex) đọc một bài phát biểu được hoan nghênh nhiệt liệt nhất (tất nhiên là do người khác chuẩn bị cho). Ai cũng tấm tắc khen và càng thêm bất ngờ khi được giới thiệu đấy là con nuôi của Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Vợ tôi lúc ấy gọi điện cho ông Dũng và mọi người giành nhau để được nói chuyện với Phó thủ tướng khiến ông Dũng cũng nức lòng nức dạ.[2]
Thời gian này, Trọng đang kẹt ma tuý ở Đồ Sơn, do Công an làm việc mạnh nên anh ta không sao lấy được hàng về (trị giá đến hàng chục tỷ đồng), toàn bộ gia tài của anh ta đều quẳng hết vào đấy, chưa kể vay mượn. Vì thế anh ta rất bí bách, túng quẫn. Biết được thời gian này vợ tôi có mối quan hệ rất tốt với ông Toàn nên Trọng muốn nhờ vợ tôi giúp đỡ. Vợ tôi cũng muốn nhân dịp này thanh toán sòng phẳng ơn cứu mạng của anh ta và nói thẳng điều này với Trọng. Thế rồi nhân một lần gặp ông Toàn, vợ tôi nói là muốn nhờ ông giúp đỡ một việc và việc này nằm trong khả năng của ông, tuy nhiên với điều kiện là ông phải hứa đồng ý giúp đỡ thì mới dám nói. Vừa thực tâm quý mến lại vừa muốn lấy lòng để khai thác vợ tôi nên ông Toàn đồng ý. Vợ tôi mới kể món nợ cứu mạng của Trọng và nhờ ông Toàn trả ơn giúp bằng cách bố trí người của ông lấy hàng về cho Trọng. Thế là Trọng liên lạc với ông Toàn và ông Toàn đã chỉ đạo toàn bộ vụ vận chuyển ma tuý từ Đồ Sơn về Hà Nội cho Trọng. Tay Trọng ma mãnh đã ghi âm được các cuộc nói chuyện điện thoại này hòng về sau khống chế ông Toàn.
Sau vụ này ông Toàn lại càng chắc mẩm sẽ vồ được con cá mập lớn vì thế ông ta cho người ráo riết truy lùng Trọng. Được tin, ông Hải hốt hoảng bố trí cho Trọng và Thuỷ trốn ngay sang Trung Quốc. Vì nếu Trọng bị bắt, anh ta sẽ khai ngay ra ông Hải, bởi trong thời gian làm ăn với nhau Trọng đã bí mật chụp ảnh, ghi âm và quay phim hành vi phạm tội của ông Hải. Dần dà, Trọng khống chế và buộc ông Hải phải nghe theo lời anh ta, mà một trong những việc đó là buộc ông Hải phải tìm cách chia lìa vợ chồng tôi để anh ta dễ bề đoạt được trái tim của vợ tôi. Trọng cảnh cáo ông Hải là nếu ông ta tìm cách giết mình thì sau khi chết, người của anh ta cũng sẽ tố cáo ông Hải. Và ông Hải đã bắt đầu thực hiện âm mưu này ngay từ khi vợ chồng tôi bỏ nhà chạy trốn khỏi sự truy sát của bọn XHĐ. Khi vợ chồng tôi đang ẩn náu trong nhà nghỉ Nam Hải, mặc dù vợ tôi nhiều lần đề nghị gặp tôi nhưng ông ta đều tìm cách thoái thác. Không những thế, khi vợ chồng tôi chuẩn bị trốn vào Quảng Trị thì ông ta nói với vợ tôi là nên để cho chồng về nhà mẹ chồng còn mình thì trốn về nhà mẹ đẻ. Tất nhiên, vợ tôi không bao giờ chấp nhận điều này và lúc đó cũng không cho tôi biết ý đồ của ông Hải.


Bộ mặt thật của ông Hải bắt đầu lộ ra từ sau Tết Đinh Hợi 2007. Sau khi bỏ lỡ chuyến trở ra Hà Nội ngày 20/1 AL (8/3/2007), vì một nguyên nhân cũng do ông Hải gây ra, ông Mạnh và ông Dũng dự định ngày 20/3 sẽ đi chuyên cơ vào Huế đón vợ chồng tôi ra. Vụ Lê Văn Toại đã giải quyết xong nhưng khi ra Hà Nội vợ tôi sẽ phải đích thân đứng ra xin lỗi anh ta!!!???[3] Nhưng ngày 20/3 là ngày khai mạc kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khoá XI nên cả hai ông đều bận. Thế là hai ông quyết định chiều 22/3 sẽ đi ô tô thẳng vào Đông Hà đón vợ chồng tôi rồi đi ra luôn trong đêm để kịp làm việc vào sáng sớm ngày hôm sau. Mấy hôm đó tôi thấy vợ tôi suy nghĩ dữ lắm, Trọng bỗng nhiên gọi điện cho vợ tôi mấy lần còn thái độ của cô ấy thì vừa bức xúc vừa lo lắng.
Đến ngày 19/3, vợ tôi mới cho tôi biết là suốt mấy hôm vừa rồi ông Hải đang cố thuyết phục, van xin và thậm chí cả đe doạ, buộc cô ấy phải bỏ tôi để đi với Trọng, bởi Trọng doạ nếu không anh ta sẽ tố cáo những hành vi phạm tội của ông Hải. Trọng đang chuẩn bị đưa Thuỷ về Việt Nam để đẻ. Vợ tôi liên lạc với Thuỷ, người vẫn rất quý mến và tôn trọng vợ tôi, thì được biết thời gian ở Trung Quốc, Trọng và ông Hải vẫn buôn bán ma tuý với nhau. Gần đây, Trọng bị lộ và bị công an Trung Quốc tróc nã gắt gao. Trọng vẫn ngày đêm tưởng nhớ đến vợ tôi, những lúc say và mê sảng thường kêu tên vợ tôi. Anh ta thường ngắm không biết chán bức ảnh vợ tôi mà anh ta chụp và lưu trong điện thoại từ hồi vợ tôi còn làm ở Tràng Tiền Plaza. Trọng cũng có tấm ảnh chụp lén tôi mà anh ta ghi vào phía sau, “Mày là đồ đáng ghét.” Thủy biết nhưng cam lòng chịu đựng vì Thuỷ rất yêu Trọng còn Trọng thì chỉ coi Thuỷ là thứ gái hư hỏng, chẳng qua cùng đường anh ta mới cần đến Thuỷ. Trọng cũng thú nhận với vợ tôi là thời gian làm việc ở Tràng Tiền Plaza, những lần mua đồ ăn thức uống cho vợ tôi anh ta đều lén cho thuốc vào. May mà vợ tôi cảnh giác không đụng đến chứ nếu không thì đã trở thành nô lệ của anh ta. Trọng vừa thuyết phục vừa doạ vợ tôi là nếu không đi với anh ta thì anh ta sẽ tố cáo ông Hải, khiến ông này phải chịu tù rục xương, thậm chí mất mạng, còn mình thì sẵn sàng chấp nhận cái chết. Trọng cảnh cáo ông Hải là nếu tìm cách giết anh ta thì sau khi anh ta chết sẽ có người khác tố cáo ông Hải. Ông Hải doạ vợ tôi là nếu không nghe lời ông thì sẽ chẳng cố ông bố nào cả, vợ chồng tôi sẽ chẳng nhận được xu nào, thậm chí mạng sống của tôi cũng bị đe doạ. Vợ tôi suốt mấy hôm đó rất hoang mang, suýt nữa thì ôm con bỏ đi vào ngày 19/3 theo sắp đặt của ông Hải, phần vì sợ tôi bị giết, phần vì sợ nếu không còn các ông bố nuôi, mất hết tất cả thì tôi sẽ không còn tin yêu nữa (ông Hải nói nếu nghe lời ông thì những tài sản kia sẽ giao hết cho tôi). Ngoài ra, ông Hải là người mà trước nay vợ tôi vẫn hết sức tin tưởng và dành nhiều tình cảm hơn trong số ba ông bố nuôi, bởi sau Trọng thì chính ông Hải là người có công thứ hai giúp vợ chồng tôi thoát khỏi bàn tay của bọn xã hội đen (?). Ông Hải cũng không tin là vợ tôi sẽ kể chuyện này cho ông Mạnh, ông Dũng biết, khi vợ tôi đe lại thế, bởi trước đấy vợ tôi rất nghe lời ông (hoặc giả ông ta đã nắm chắc những lá bài của mình). Nhưng cuối cùng tình yêu vô bờ bến dành cho chồng đã níu chân vợ tôi lại và kể hết cho tôi nghe.
Trọng biết theo kế hoạch thì chiều 22/3, ông Mạnh và ông Dũng sẽ đi ô tô vào Đông Hà đón vợ chồng tôi ra. Anh ta liền ra tối hậu thư cho ông Hải là nếu vợ chồng tôi mà ra Hà Nội trong ngày hôm đó thì anh ta sẽ ngay lập tức tung những chứng cứ phạm tội của ông Hải lên mạng rồi về Việt Nam tự thú, chấp nhận cái chết. Với một kẻ cáo già và liều lĩnh như Trọng, ông Hải biết là anh ta không hề nói đùa. Thế là cuối buổi chiều 22/3, khi ông Mạnh và ông Dũng đã chuẩn bị xong xuôi, sắp sửa lên đường thì ông Hải gọi điện cho ông Dũng báo là có chuyện quan trọng muốn gặp. Lúc đầu hai ông nghĩ chắc là ông Hải muốn gửi quà cáp gì đây, nhưng khi gặp nhau ông Hải mới dở bài dèm pha tôi để thuyết phục hai ông kia rằng nếu ở với tôi thì vợ tôi chỉ có khổ mà thôi. “Bây giờ chỉ có cách tách hai đứa ra, thà để Phương chịu đau khổ một lần để sau này nó khỏi khổ…” Ông Mạnh, ông Dũng chỉ nghe mà không biết nói gì. Vợ tôi gọi điện cho ông Dũng và ông Mạnh, hai ông hỏi, “Giữa con và bố Hải có chuyện gì à?” Vợ tôi nói, “Chuyện gì bố cứ hỏi bố Hải ấy, nếu bố Hải hôm nay không nói thì ngày mai con sẽ nói.” Chuyến trở về Hà Nội của vợ chồng tôi vì thế lại lỡ dở.
Sáng hôm sau (23/3), vợ tôi gọi điện kể hết cho ông Mạnh nghe chuyện của ông Hải, cả chuyện ông Hải hầu như không gửi tiền vào cho vợ chồng tôi mà thậm chí nhiều lần vợ tôi còn xoay tiền gửi ra cho ông nữa, vì ông ta kêu ca là đang dồn tiền làm nhà cho vợ chồng tôi nên kẹt tiền. Ông Mạnh nghe xong vô cùng sửng sốt, ông không thể ngờ sự thật về ông Hải lại như thế. Sau đấy vợ tôi kể cho ông Dũng nghe thì ông này còn sốc mạnh hơn, đến nỗi ông phải dập máy một lúc lâu mới đủ bình tĩnh để gọi lại cho vợ tôi.
Thì ra bấy lâu nay ông Hải vẫn âm mưu chia rẽ vợ chồng tôi, làm đủ mọi cách hòng khiến tôi phải nghi ngờ vợ tôi. Tiền của ông Mạnh, ông Dũng đưa cho ông để ông gửi vào cho vợ chồng tôi ông cũng không gửi, thậm chí nhiều lúc còn không nói cho vợ tôi biết. Có những lần ông Dũng hỏi vợ tôi là đã nhận được tiền chưa, vợ tôi biết ngay là ông Hải đã ỉm đi nhưng vì tin tưởng và thương ông Hải nên vợ tôi đã trả lời chống chế để bảo vệ ông ta. Quà cáp mà hai ông kia gửi cho tôi ông ta cũng không đưa, kể cả cái máy tính xách tay mà tôi nói vợ xin ông Dũng để tôi dịch sách cho khuây khoả thời gian (thứ duy nhất mà vì tôi vợ tôi đã phải mở miệng xin). Mặt khác, ông ta luôn thừa dịp nói xấu, dèm pha tôi với ông Mạnh, ông Dũng. Ông ta nói, “Thằng Hùng thì tôi đã điều tra và nắm rõ như trong lòng bàn tay.” Thậm chí, ông ta còn thuyết phục ông Dũng hay là tìm cách thủ tiêu tôi đi để sau này vợ tôi đỡ khổ. May mà ông Dũng nói lại với ông Mạnh và ông Mạnh đã cảnh cáo ông Hải chứ nếu không chưa biết tính mạng của tôi sẽ thế nào. Ông Hải thậm chí còn mua chuộc cả thầy bói để thầy “phán” cho ông Mạnh và ông Dũng nghe tương lai đầy trắc trở của vợ chồng tôi nếu vẫn cứ sống với nhau. Những chuyện này trước đấy ông Mạnh, ông Dũng không nói cho vợ tôi biết, sợ vợ tôi buồn vì các ông đều biết vợ tôi yêu chồng đến nhường nào.
Ông Mạnh và ông Dũng rất căm tức chuyện ông Hải đã ỉm số tiền hai ông đưa cho để ông ta gửi cho vợ chồng tôi, khiến vợ chồng tôi phải sống thiếu thốn một thời gian dài. Thậm chí ngày vợ tôi mổ đẻ, hai ông gửi tiền cho chúng tôi qua ông Hải nhưng ông ta cũng lờ luôn, vợ tôi buộc phải bán cái đầu kỹ thuật số VTC được 600.000VNĐ và phải mượn thẻ bảo hiểm y tế để đỡ tiền viện phí. Khi đó, ông Hải còn nói với vợ tôi, “Con đừng điện cho hai ông ấy kẻo hai ông lại lo. Hai ông đang bận mà cũng không có tiền đâu.”[4] Cũng may là vợ tôi thường xuyên nhận được sự giúp đỡ của những người giàu hảo tâm ở Quảng Trị, đặc biệt là ông Bùi Đại Thắng, Giám đốc Cty Công trình Đô thị và ông Đào Duy Thanh, Cục trưởng Cục thuế. Xảo quyệt hơn, mỗi khi ông Dũng hay ông Mạnh bố trí tranh thủ vào thăm vợ chồng tôi, ông Hải lại tìm mọi cách ngăn trở, đánh lạc hướng hay bày ra việc khác để làm lỡ kế hoạch của họ. Ông ta cũng cố tình kéo dài thời gian xây nhà, nhiều lần cho thợ nghỉ không có lý do nhằm để vợ chồng tôi ở lâu trong Quảng Trị và có thêm thời gian loại bỏ tôi (thợ chủ yếu thuê từ Mỹ sang). Trong khi đó, vợ tôi không những không mảy may nghi ngờ mà còn hết sức tin tưởng ông Hải. Tôi thì chỉ nghĩ đơn giản là chắc ông ta đang dồn tiền làm nhà cho vợ chồng tôi và xem đấy như là một hình thức “quà cáp” cho ông Mạnh và ông Dũng, còn hai ông này thì không có nhiều tiền. Ông Hải lúc nào cũng kêu ca với vợ tôi về chuyện kẹt tiền làm nhà, chuyện ông Mạnh cứ bắt phải đập đi sửa lại này nọ, rồi cả tiền xây toà cao ốc văn phòng trên đường Liễu Giai nữa. Sau này vợ chồng tôi được biết tiền xây nhà chủ yếu là tiền của ông Mạnh, còn toà cao ốc văn phòng là tiền của ông Dũng. Những chuyện tiền nong ấy không bao giờ ông Mạnh và ông Dũng muốn nói với vợ tôi. Ông Mạnh cũng là người giữ giấy tờ nhà để khi ra Hà Nội sẽ giao cho vợ chồng tôi. Khi chuyện của ông Hải vỡ lở, theo gợi ý của tôi, ông Mạnh đã cho người rà toàn bộ ngôi nhà thì phát hiện ra một hệ thống máy ghi âm và máy quay phim tinh vi, rải khắp nhà, kể cả trong toilet, kéo ra đến tận cổng. Đầu ra của hệ thống này được đặt trong một cái hốc kín đáo nằm dưới chuông cổng để người bên ngoài có thể dễ dàng đến lấy băng và phim. Ông Mạnh, ông Dũng bảo với vợ tôi, "Thằng cha này đúng là cáo chứ không phải là người nữa!"
Ông Hải còn thường xuyên cho người ghi âm theo dõi nhà mẹ tôi ở Hà Nội, nhằm cho ông Mạnh và ông Dũng thấy rằng mẹ tôi là người khắc nghiệt, sau này khi sống với bà – vì tôi là đứa con có hiếu (không phải tôi tự khen mình mà điều này là do ông Hải ghi âm được từ chính miệng mẹ tôi) – thì vợ tôi sẽ khổ, cho dù sau tất cả những gì mẹ tôi đã gây ra cho vợ tôi thì ai cũng có thể hiểu được nếu sau này vợ chồng tôi không sống cùng bà, và tôi cũng đã nói với vợ tôi điều đó. Thâm độc hơn, khi mẹ tôi thuê thầy pháp hòng làm hại vợ tôi (đây lại là âm mưu của ông ta, ông ta đã dựng chuyện một cách rất tài tình) thì chính ông Hải đã xúi giục ông Mạnh và ông Dũng ra tay giết hại mẹ tôi. May mà hai ông kia đã thương tôi, đặc biệt là nhờ tấm lòng đạo hiếu của vợ tôi mà hai ông đã không cho phép làm thế.
Ông Hải chắc chắn cũng chủ mưu vụ cho người giả giọng vợ tôi, thời gian vợ chồng tôi mới bỏ nhà chạy trốn bọn xã hội đen, gọi điện đến những người thân quen trong gia đình tôi để đề nghị mượn xe hoặc mượn tiền.
Vào dịp lễ Phật Đản 2006, ông cậu vợ tôi uống rượu say rồi gây chuyện đuổi đánh tôi, vợ chồng tôi đã đi thuê nhà được gần ba tháng thì ông Hải đã xúi giục ông Dũng và ông Mạnh (như sau này chính ông Dũng thú nhận) tìm mọi cách thúc giục vợ chồng tôi quay lại nhà bà ngoại ở, hòng khiến cho tôi cảm thấy bị ức chế, chán nản mà bỏ đi. Trong khi đó ông ta vẫn nói với vợ tôi là "bố thì thế nào cũng được, con thích ở đâu thì ở." Tất cả những âm mưu đó là nhằm chia rẽ vợ chồng tôi để Trọng nhảy vào chiếm đoạt vợ tôi.
Ông ta khéo bày chuyện đến mức có lần ông Mạnh viết cho tôi một bức thư rồi giao cho ông Bùi Đại Thắng (thời gian ấy thường xuyên ra Hà Nội chăm sóc cây cảnh cho ngôi nhà đang xây) vào Đông Hà để đưa riêng cho tôi. Ông Thắng biết nội dung bức thư và biết tình cảm thực sự giữa vợ chồng tôi nên quyết định không gặp tôi để đưa riêng bức thư mà thay vì thế gọi vợ tôi ra quán cà phê rồi đưa cho cô ấy đọc. Lời lẽ trong bức thư theo như vợ tôi thuật lại là rất ghê gớm, đến nỗi cô ấy xé luôn bức thư rồi về tìm tôi mà người cứ như bị mất hồn. Ý tứ ông Mạnh viết trong bức thư là đề nghị tôi hãy buông tha cho vợ tôi, cô ấy đã khổ nhiều rồi. Tất cả nhà cửa, xe cộ ông ấy sẽ để lại cho tôi. Vợ tôi lúc ấy vô cùng phẫn uất, tôi phải trấn an cô ấy và nói, “Bố Mạnh viết như thế chẳng qua cũng là vì thương em thật lòng chứ không có ý gì khác. Em hãy bình tĩnh, trước mắt đừng gọi điện ngay cho ông ấy mà bức xúc không hay.” Ông Mạnh sau đó gọi điện cho ông Thắng và khi nghe ông Thắng nói (dối) là chưa đưa thư cho tôi (và dĩ nhiên vợ tôi chưa biết) ông đã thở phào nhẹ nhõm như vừa trút được một gánh nặng. Có nghĩa là bản thân ông Mạnh sau khi gửi thư đi rồi cũng vừa lo lắng, vừa hối hận và may là tôi đã kịp trấn an nên vợ tôi đã không gọi điện nặng lời ông ấy. Tuy nhiên, cũng phải mất một thời gian vợ tôi mới trút bỏ được ác cảm với ông Mạnh, khi càng ngày vợ tôi càng cảm nhận được tình cảm bố con thực sự mà ông dành cho mình.
Ông Hải cũng chính là người xúi ông Dũng sắp xếp cho tôi đi du học ở đại học Harvard hồi vợ chồng tôi mới chạy vào Đông Hà. Cũng may là chính tình yêu đã giữ hai chúng tôi lại bên nhau chứ nếu ngày ấy tôi mà đi du học thì hẳn giờ này hồn tôi còn đang phiêu diêu tận xứ sở cờ hoa!
Trở lại với sự kiện hôm 23/3/2007, vợ tôi còn cho ông Mạnh và ông Dũng biết một tin động trời nữa là ông Hải từng thú nhận với cô ấy rằng chính ông ta đã giết hại tay trợ lý người Quy Nhơn (Bình Định) của mình hồi ông ta còn làm Tổng Giám đốc TCT Điện lực Việt Nam, vì tay này biết quá nhiều bí mật tội ác của ông ta. Ông Mạnh và ông Dũng bảo vợ tôi là coi như chưa có chuyện gì xẩy ra, sợ rằng nếu ông Hải biết được vợ tôi đã kể hết cho hai ông nghe thì ông ta sẽ không để cho hai vợ chồng tôi yên. Hai ông cũng bày cho vợ tôi nói với ông Hải rằng, “Bố buộc con phải lựa chọn thì bây giờ con đã lựa chọn. Giờ con không cần ông bố nào cả, con chỉ chọn chồng con thôi. Xin bố hãy để cho vợ chồng con yên, sướng khổ có nhau.” Đồng thời vợ tôi cũng doạ lại ông Hải là nếu ông ta và Trọng mà làm tới thì cô ấy sẽ báo cho ông Nguyễn Khánh Toàn biết (ông Hải lúc ấy tỏ ra rất sợ điều đó).
Sau sự kiện này, ông Mạnh xem ra khá bình tĩnh còn ông Dũng thì bị sốc rất mạnh, ông từng đặt nhiều niềm tin và hy vọng vào ông Hải, coi ông ta như là "tiếp ban nhân" của mình. Ngày 25/3/2007, xem hình ảnh ông làm việc với Ban Quản lý Khu Công nghệ cao Hoà Lạc (ông mặc chiếc áo màu vàng) mà trông ông phờ phạc như vừa mới ốm nặng dậy.
Ít hôm sau, ông Dũng giao cho ông Bùi Đại Thắng vào Quy Nhơn (Bình Định) để điều tra về vụ ông Hải giết tay trợ lý. Tại nhà bố mẹ người trợ lý của ông Hải, ông Thắng đã thu thập được rất nhiều tài liệu, chứng cớ chứng minh tội ác của ông Hải, có cả bức ảnh ông ta đang nằm với gái. Tay trợ lý láu cá này còn ghi âm được những cuộc mật đàm có mặt những người như ông Đỗ Mười… Ngoài buôn bán ma tuý, ông Hải còn tham gia buôn bán cả vũ khí. Sau khi xuống tay với người trợ lý của mình, hàng năm ông Hải vẫn gửi tiền chu cấp cho gia đình bố mẹ anh ta. Sau đấy ông Thắng còn cùng đi với một trợ lý của ông Dũng vào Sài Gòn thu thập thêm chứng cứ.
Qua mặt ông Mạnh và ông Dũng làm cho vợ chồng tôi sống thiếu thốn một thời gian dài, ngay cả khi vợ tôi sinh nở, vậy mà ông Hải lúc nào cũng cứ lem lẻm, “Các anh cứ yên tâm đi, tôi đã lo cho hai đứa không thiếu một thứ gì.” Ông Mạnh vì thế dự định làm ra chuyện vụ này, quyết đưa ông Hải ra toà. Đầu tiên ông nêu chuyện bán ngôi nhà rồi cưa đôi số tiền. Ông nhờ người nhà ông Bùi Đại Thắng đứng tên mua, đồng thời trả cho ông Hải số tiền bằng ½ mức giá ngôi nhà do ông Hải đưa ra. Sau đó, ông Mạnh bảo vợ tôi gọi điện thăm hỏi ông Nguyễn Khánh Toàn. Ông Mạnh định làm sớm vụ này trong khi ông Dũng lại có ý lần lữa, viện lý do là Chính phủ đang cần ông Hải một số việc mà khó có ai thay thế. Ông Hải thời gian ấy đi đâu cũng cứ như tổng thống Mỹ, với xe trước xe sau chở vệ sỹ còn xe ông ta đi giữa có kính chống đạn cùng hai tên vệ sỹ hộ pháp khác.
Mãi đến cuối tháng 4/2007, theo sắp đặt của ông Mạnh, vợ tôi mới gọi điện cho ông Toàn tố cáo ông Hải buôn bán ma tuý, ông Toàn đã ghi âm lời tố cáo qua điện thoại. Trung tuần tháng 4/2007, vợ chồng tôi dự định đi Đà Nẵng chơi một thời gian vì không khí trong gia đình nhà bà ngoại vợ quá ngột ngạt. Ông cậu thì tính khí thất thường, lại hay rượu chè rồi kiếm chuyện. Bà mẹ vợ thì vừa mới sinh thêm một đứa con trai ở tuổi 42, trong lúc gia cảnh vẫn khó khăn bần hàn. Ngày ngày đi ra đi vô chứng kiến cảnh ầu ơ nheo nhóc, chốc chốc lại được rót vào tai những lời nanh nọc, cay nghiệt thì đến thần kinh thép cũng phải chảy ra. Tuy nhiên, mặc dù ông Mạnh không phản đối nhưng ông Dũng lại không đồng ý, sợ rằng trời nắng nóng sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ con gái tôi (lúc đó mới hơn 5 tháng tuổi). Đột nhiên cuối tháng 4/2007, ông Dũng thay đổi, đồng ý cho vợ chồng tôi đi Đà Nẵng. Ông còn nói là sẽ tranh thủ bay vào Đà Nẵng gặp gỡ vợ chồng tôi và thăm cháu. Thế nhưng kế hoạch buộc phải đình lại vì con tôi bất ngờ bị sốt vi-rút. Tôi vẫn quyết đi vào Đà Nẵng một mình và ông Dũng cũng có kế hoạch bay vào Đà Nẵng gặp tôi. Nhưng rồi vợ tôi đã ôm lấy tôi khóc lóc mà rằng, “Em xa anh mấy giờ cũng không chịu nổi chứ đừng nói một ngày hay mấy ngày. Hay anh hãy đợi thêm ít hôm nữa con khỏi ốm rồi hai vợ chồng mình cùng đi anh nhé.” Tôi nghe thế thì còn lòng dạ nào mà đi cho đành.


Sau đấy ít hôm, đầu buổi sáng ông Bùi Đại Thắng đột nhiên gọi điện cho vợ tôi bảo đến ngay Cty ông có việc gấp. 10h sáng vợ tôi về đến nhà, nước mắt vòng quanh kể cho tôi nghe chuyện vừa xẩy ra. Thì ra ông Dũng cùng ông Thắng tối hôm qua đã bay từ Hà Nội vào Huế rồi ra Đông Hà, vợ tôi đến Cty ông Thắng thì bất ngờ gặp ông Dũng ở đó. Ông Dũng lúc này mới nói thật với cô ấy, “Con hãy tạm thời đi theo bố một thời gian, bây giờ chỉ có con mới cứu được bố thôi. Bố sẽ không để cho thằng Hùng phải chịu thiệt thòi đâu, nó đưa ra điều kiện gì bố cũng chấp nhận cả.” Ông đưa cho vợ tôi một số giấy tờ nhà đất cùng một cặp tiền rồi nói, “Hai triệu dollar là thoải mái chứ gì...” Vợ tôi lúc ấy quá uất ức căm hận, liền cầm lấy mấy thứ đó ném thẳng vào mặt ông, “Bố là đồ khốn nạn. Con không cần một người bố như thế!” Vợ tôi quay lưng ra về còn ông Dũng thì đổ gục xuống bàn khóc nức nở. Sau đấy, theo lời ông Thắng kể lại, ông Dũng cầm lấy cái máy tính xách tay mới mua định tặng tôi ném mạnh xuống nền nhà và nói, “Không bố với con gì nữa hết!” Rồi ông bảo ông Thắng chở ông vào Huế để bay ra Hà Nội luôn. Trên đường ra ông vẫn gọi điện cho vợ tôi, “Có gì bố gọi điện cho con sau.” Tôi còn nhớ, chiều hôm đó ông tiếp Tổng tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa đang ở thăm và làm việc tại Việt Nam.
Thực ra từ mấy hôm trước đấy, vợ tôi đã linh cảm có điều gì đó chẳng lành. Ông Dũng đột nhiên quay sang dèm pha tôi và nói rằng vợ tôi mà sống với tôi thì chỉ có khổ mà thôi. Khi từ cơ quan ông Thắng trở về nhà kể cho tôi nghe, dù lòng dạ đang rối như tơ vò nhưng vợ tôi vẫn không dấu nổi những giọt nước mắt đau đớn vì thương ông Dũng, bởi cô ấy cảm nhận được rõ tình yêu thương của ông và “những lời ông thốt ra lúc ấy như quặn thắt ruột gan ông lại.” Vợ tôi nói, “Hay là anh cứ cầm tạm số tiền ấy, để em đi theo bố Dũng một thời gian giúp ông ấy xem sao.” Tôi nói, “Tạm thời em cứ đồng ý thế kẻo ông ấy lại manh động, nhưng trước tiên là phải báo cho bố Mạnh biết đã.”
Lúc đó vợ chồng tôi cũng chưa hiểu thực chất của việc phải “đi theo bố một thời gian” là thế nào, nhưng rồi tôi cũng nhanh chóng phán đoán ra rằng ông Dũng đã bị ông Hải “trói” và buộc phải nghe theo lời ông Hải và Trọng. Việc “đi xa một thời gian” chỉ là cách nói của ông ấy mà thôi, chứ điều đó hoàn toàn có thể là "một đi không trở lại."
Vợ tôi gọi điện báo cho ông Mạnh. Ông Mạnh bảo, “Con đã mất một ông bố rồi, mất thêm một ông bố nữa cũng chẳng sao, đã có bố đây.” Ông nói cứ chờ xem ông Dũng có báo cáo sự việc cho ông biết không. Ông sẵn sàng vì ông Dũng mà đứng ra giải quyết vụ này. Vợ tôi gọi điện cho ông Dũng, động viên ông báo cáo sự việc cho ông Mạnh và nói, “Nếu bố Mạnh không giúp bố thì con sẽ sẵn sàng giúp bố.” Ông Dũng lần lữa một hôm rồi kể hết cho ông Mạnh nghe chuyện ông bị ông Hải giăng bẫy như thế nào. Ông cũng thú nhận với vợ tôi là nếu mấy hôm trước tôi mà vào Đà Nẵng thì một mặt ở Đà Nẵng ông sẽ thuyết phục tôi giúp ông, một mặt ở Đông Hà ông sẽ cho người đến đón vợ con tôi đưa đi luôn!
Mấy ngày hôm đó, nhà bà ngoại vợ tôi dường như có người theo dõi. Đó chính là người của ông Nguyễn Khánh Toàn. Ông Toàn sau khi nghe vợ tôi tố cáo ông Hải buôn bán ma tuý đang hý hửng tính “làm một mẻ lớn” để cầm chắc cái ghế Bộ trưởng Công an mà ông ta hằng ao ước và nhắm nhe bấy lâu. Ông ta bay ra bay vào liên tục để gặp và thẩm vấn vợ tôi, ông còn cho vợ tôi nghe băng ghi âm mà ông ghi lén được ở nhà bà ngoại vợ tôi. Ông ta nói, “Chú có thể bắt con ngay nhưng vì con đang có con nhỏ nên chú không nỡ.” Tuy nhiên, vợ tôi cũng biết doạ lại ông ta, “Nếu chú mà bắt con và đưa con ra toà thì con cũng sẽ khai rằng chú từng giúp Trọng vận chuyển ma tuý từ Đồ Sơn về Hà Nội. Ngoài ra trong dịp Vinatex tổ chức hội nghị ở Đà Nẵng, khi đưa con từ Đà Nẵng về Đông Hà con có mang theo một bánh ma tuý trên xe chú.” (Lần ấy vợ tôi vận chuyển ma tuý là theo sắp đặt của ông Hải.) Ông Toàn nghe thế cũng “chợn” nên chưa dám bắt vợ tôi ngay. Tuy vậy, ông ta vẫn cho người theo dõi vợ chồng tôi, cấm rời khỏi Đông Hà. Quá căng thẳng trước không khí gia đình và trước tình hình như thế, bất chấp tất cả, vợ tôi vẫn quyết định gọi taxi cùng tôi đi Đà Nẵng chơi. Ông Toàn biết vợ chồng tôi định đi Đà Nẵng liền gọi điện cho ông Hải, cảnh cáo là nếu vợ chồng tôi ra khỏi Đông Hà, ông ta sẽ cho người bắt ngay. Tôi lúc ấy vẫn còn đủ tỉnh táo để bảo vợ gọi điện cho ông Mạnh trước khi đi. Ông Mạnh đã xạc cho vợ tôi một trận. Vợ chồng tôi buộc phải quay xe lại khi vừa mới đi tới Nhà khách UBND tỉnh Quảng Trị.
Sự việc tiếp theo đấy diễn ra nhanh đến chóng mặt. Ông Mạnh đang định gọi ông Hải đến để hỏi thẳng vào mặt xem ông ta muốn gì thì ông Dũng trước đấy đã khuyên ông Hải kể hết cho ông Toàn nghe. Ông Toàn lúc này cũng há miệng mắc quai, ông ta đã thò đầu vào cái thòng lọng của ông Hải (lúc nhận hơn 5 tỷ VNĐ để xử vụ Lê Văn Toại) và của Trọng (lúc giúp Trọng vận chuyển ma túy từ Đồ Sơn về Hà Nội), mặc dù ông này là một con người rất ghê gớm, có đôi mắt - như lời vợ tôi từng nói thẳng vào mặt ông ta - của một con sói hoang dại, sẵn sàng làm tất cả. Nhưng đến lúc này thì con sói hoang dại ấy đã trở nên ngoan ngoãn dưới tay Trọng. Anh ta không cần phải lén lút nữa mà công khai đi vào Đông Hà, nghỉ ở khách sạn Thành Quả cả tháng trời và thậm chí còn ngang nhiên đi qua nhà bà ngoại vợ tôi, ngay trước mắt tôi, với sự tháp tùng của tay sỹ quan công an người Huế từng mấy lần đi với ông Toàn gặp vợ tôi.[5]
Kịch tính câu chuyện lên đến đỉnh điểm khi ông Hải lúc này mới tung ra lá bài quan trọng nhất - bằng chứng về hành vi phạm tội của ông Mạnh (buôn bán vũ khí) và đến lượt ông Mạnh trở thành con tin trong tay Trọng. Ông Hoàng Trung Hải và tay Việt kiều Mỹ Trương Đức Hải nhập lậu vũ khí từ những nước như Nhật Bản, Trung Quốc... về Việt Nam, sau đó giao cho ông Mạnh, Bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương, và ông này nâng khống giá lên để kiếm chác theo kiểu “Sống chết mặc bay...” Tuy nhiên, điều này thì mãi về sau vợ chồng tôi mới biết chứ còn lúc đó ông Mạnh vẫn đóng rất đạt vai một ông bố sẵn sàng làm tất cả vì hạnh phúc của đứa con thân yêu. Và kể từ đấy, một mặt ông ta vẫn nói với vợ tôi là đang tìm mọi cách giải quyết êm đẹp vụ việc, một mặt, với sự cố vấn đắc lực của ông Hải, ông ta lại thực hiện nhiều mưu mô hòng khiến tôi phải nghi ngờ vợ, gây chia rẽ vợ chồng.
Đầu tiên, ngày 10/5, ông Dũng đột nhiên gọi điện cho vợ tôi nói là muốn về thăm nhà ba tôi ở Hà Tĩnh (ba tôi sống với vợ hai ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) và xem đấy như là hành động chuộc lỗi với tôi. Ông còn bảo vợ tôi hỏi tôi có muốn viết gì gửi cho ba tôi không để ông ấy giả nét chữ của tôi viết thay cho. Tôi bảo vợ tôi nói lại với ông rằng tôi đang giận ba tôi bởi thời gian vợ chồng tôi chạy nạn vào Đông Hà ông đã vào nhục mạ vợ tôi. Ông Dũng nói với vợ tôi là chiều 11/5 sẽ đi ô tô từ Hà Nội về nhà ba tôi rồi ra luôn trong đêm. Tôi rất cảm kích trước việc này và gửi lời cám ơn ông. Sau đấy tôi nghe vợ tôi kể lại những chuyện y như thật, nào là ông Dũng đã gặp gỡ ba tôi ra sao, nào là ông ấy đã yêu cầu ba tôi gọi điện ra Hà Nội cho mọi người để minh oan cho vợ tôi ra sao... Tôi phần vì rất tin tưởng vợ, phần vì còn giận ba tôi nên không thèm gọi điện về nhà hỏi han tình hình.
Thấy việc mình ông Dũng về nhà ba tôi xem ra chưa đủ “đô” khiến cho tôi phải gọi điện về nhà, ông Mạnh lại nói với vợ tôi là ông cũng muốn về nhà ba tôi và chỉ sau chuyến đi của ông Dũng mấy ngày, ông Mạnh nói là cả hai ông đã về nhà ba tôi. Lần này cũng vậy, mặc cho hai ông kể bao chuyện như thật về chuyến đi để vợ tôi thuật lại cho tôi nghe nhưng tôi cũng chẳng thèm gọi điện về nhà, khiến cho âm mưu của mấy ông lại thất bại. Các ông này còn tinh vi đến mức là ông Mạnh cho vợ tôi (qua đó gián tiếp cho tôi) biết là sẽ gọi điện cho bà ngoại và mẹ vợ tôi nhưng lại dặn hai người này là không được nói cho ai biết, kể cả tôi, để giữ uy tín cho các ông. Mục đích là để khi tôi hỏi bà ngoại hay mẹ vợ thì hai người sẽ phủ nhận chuyện có "ông nào đó" gọi điện, khiến tôi phải nghi ngờ vợ.
Gần suốt cả tháng 5, Trọng ngày nào cũng lảng vảng gần nhà bà ngoại vợ tôi hòng gặp gỡ, thuyết phục và cả đe doạ vợ tôi. Anh ta còn đặt máy ghi âm nghe lén vợ chồng tôi. Có những hôm 2, 3 giờ sáng vợ tôi dậy đi vệ sinh thì thấy Trọng thập thò ngoài cửa sổ, lại còn gọi “Em yêu ơi!” Tôi thì không làm gì vì vẫn tin tưởng ông Mạnh còn chưa dính chàm, đang tìm cách thu xếp và nếu tôi báo công an bắt Trọng thì sẽ nguy đến các ông.
Ngày Chủ nhật 3/6/2007, không chịu nổi không khí ngột ngạt đến vỡ thần kinh trong nhà bà ngoại, vợ chồng tôi bỏ đến khách sạn Công Đoàn (4 Lê Lợi) để ở. Lúc này ông Mạnh đang công du 4 nước Mỹ Latin. Thời gian ở khách sạn tôi linh cảm thấy có điều gì bất an trong lòng. Ngày 13/6 ông cậu vợ tôi mất trên đường làm phụ xe khách từ Sài Gòn ra. Nguyên nhân theo như nhà xe nói là bị chảy máu não do ngã xuống sàn xe nhưng thực chất là bị đánh đập bầm tím khắp người. Vợ tôi vì thế rất đau buồn.
Gần trưa ngày 13/6, khi tôi đến Bưu điện Đông Hà gọi điện về nhà báo cho ba tôi biết về cái chết của ông cậu vợ và hỏi han tình hình thì nhận được những thông tin như sét đánh ngang tai. Không hề có chuyện ông Dũng hay ông Mạnh đến nhà ba tôi như vợ tôi kể với tôi. Tôi lặng người đi và quyết định gọi điện cho vợ (lúc đó đang ở nhà bà ngoại) để hỏi cho ra nhẽ. Vợ tôi cũng bất ngờ không kém. Vợ tôi liền gọi điện cho ông Dũng, ông nói là sẽ bay vào Huế ngay và bố trí gặp tôi vào lúc 2h chiều. Không mất quá nhiều thời gian, tôi phát hiện ra đây lại là một âm mưu nhằm khiến tôi nghi ngờ vợ, gây chia rẽ vợ chồng. Vợ tôi lúc này mới đập tay vào đầu như vỡ ra điều gì và sau đấy thú thật với tôi rằng trước khi vợ chồng tôi đến ở khách sạn Công Đoàn chừng bốn ngày (tức ngày 31/5), ông Mạnh đã gọi điện cho vợ tôi, khóc lóc mà rằng, “Bây giờ chỉ có con mới cứu được hai bố và cứu được cả nước Việt Nam khỏi sụp đổ!” Chính ông đã trở thành con tin trong tay Trọng! Sau nhiều lần ông vừa gọi điện cầu xin vừa đe doạ, vợ tôi nói là hãy cho cô ấy một thời gian. Chuyện này vợ tôi đã giấu không cho tôi biết. Thảo nào, thời gian ở khách sạn tôi thấy vợ tôi nhiều lúc nói, “Em kiệt sức lắm rồi, không biết có chịu nổi nữa hay không.” Và có một lần vợ tôi bỗng tâm sự với tôi là muốn để cho tôi ra đi mà làm lại cuộc đời, thấy tôi cứ khổ mãi cô ấy không chịu được... Lần ấy tôi đã khóc và nói, “Em là đồ độc ác. Từ ngày lấy em anh mới biết thế nào là hạnh phúc. Chưa bao giờ anh thấy mình khổ cả, anh không bao giờ ân hận vì đã lấy em.” Vợ tôi xin lỗi tôi, hai vợ chồng ôm nhau chan hoà nước mắt. Nghĩa là chính vợ tôi đã từng dằn vặt, cân nhắc chuyện chia tay tôi để tôi đỡ khổ và hy sinh tấm thân của mình để cứu các ông. Nhưng khi biết tình yêu của tôi vẫn không hề suy chuyển vợ tôi đã dẹp bỏ ý định ấy. Thời gian này, Trọng không ngừng gây sức ép và đe doạ ông Dũng, đặc biệt là ông Mạnh. Mặc dù vợ tôi đã làm đủ mọi cách, hết cầu xin đến chửi bới, thậm chí nổi xung lên nhổ cả vào mặt nhưng vẫn không sao lay chuyển được quyết tâm sắt đá của anh ta. Việc vợ chồng tôi chuyển ra khách sạn ở khiến Trọng càng thêm điên tiết.
Trở lại với những diễn tiến hôm 13/6/2007, tôi biết tình thế đã trở nên nguy cấp. Chỗ dựa cuối cùng là ông Mạnh đã không còn nữa, mọi quyết định vào lúc này vừa cần phải sáng suốt, vừa không được chậm trễ. Nhưng cuối cùng vẫn không biết tính thế nào, gia đình lại gặp lúc có tang nên mọi chuyện càng thêm rối bời. Vợ tôi gọi điện cho ông Thắng, ông khuyên là không nên cho tôi gặp ông Dũng (vào 2h chiều hôm ấy), sẽ rất nguy hiểm, mà hãy từ từ lo xong việc tang rồi hẵng tính. Ông Thắng còn nói là ông Mạnh bị ông Hải và ông Dũng ép chứ ông Mạnh vẫn rất thương hai vợ chồng tôi. (Thực ra đây là âm mưu của ông Mạnh, ông Hải và ông Thắng, sẽ nói ở phần sau.) Chiều hôm đó, ông Mạnh gọi điện cho vợ tôi, “Con đừng cho ông Dũng biết, bố sẽ làm hộ chiếu rồi đưa hai vợ chồng con đi trốn, muốn đi đâu thì tuỳ hai con. Còn nếu bây giờ con không tin bố nữa thì bố sẽ làm hộ chiếu rồi giao cho ông Thắng, ông Thắng sẽ bố trí đưa các con đi trốn.” Ông Thắng gọi điện cho vợ tôi nói là ông Mạnh cũng gọi điện cho ông nói với đại ý như trên và nhận xét thêm là giọng ông Mạnh lúc đó đầy uất nghẹn, phẫn chí (!?).
Tối hôm đó, gia đình bà ngoại vợ tôi làm lễ nhập quan cho ông cậu. Ông Dũng và Trọng có lảng vảng tới gần nhà, định ghé vào thăm hỏi nhưng e ngại tôi vốn cộc tính sẽ không giữ được bình tĩnh.
Hôm sau, hai vợ chồng tôi lòng dạ vẫn rối bời, chưa biết xử trí thế nào. Gần trưa, lúc hai vợ chồng nằm bên nhau, tôi nói, “Em cứ yên tâm đi, tất cả là do em quyết định, anh không bao giờ bỏ rơi em, bất chấp cái chết có thể đến với anh. Anh không hề oán giận gì em đâu. Tất cả là do số phận, do người khác gây ra chứ lỗi không phải ở em.” Vợ tôi nói, “Hay bây giờ thế này anh nhé, mình quyết định cho nhanh luôn đi anh. Vợ chồng mình tạm xa nhau một thời gian, em chấp nhận đi theo thằng Trọng còn anh ở nhà đợi em về. Em sẽ làm mọi cách, kể cả giết hắn, để trở về với anh, có chết thì cũng về chết trong vòng tay của anh!” Tôi nói, “Anh sẽ không bao giờ lấy vợ nữa mà sẽ đợi em về, 5 năm, 10 năm, 20 năm hay đến chết anh cũng đợi em về. Em mãi mãi là người vợ thương yêu của anh!” Vợ tôi nói, “Mình quyết định nhanh như thế anh nhé. Bây giờ anh cứ ra điều kiện đi, em không biết gì về tiền đâu. Để em gọi điện luôn cho bố Mạnh cho xong, kẻo lại thay đổi nữa.” Trong thâm tâm, tôi không ngờ vợ chồng tôi lại đi đến quyết định nhanh như thế. Có lẽ một phần là lúc đó cả hai chúng tôi đều đã quá mỏi mệt, vợ tôi đã bị ngất xỉu đến mấy lần, một phần là nếu bỏ trốn theo ông Mạnh thì chưa biết an nguy thế nào, phần nữa là sức ép từ các ông ấy. Tôi nói với vợ hai điều kiện, thứ nhất là tôi phải có ngôi nhà đã nói ở trên cộng với 1 tỷ dollar tiền mặt. Và thứ hai là yêu cầu các ông phải bảo đảm tính mạng cho tôi, nếu tôi có mệnh hệ gì thì vợ tôi sẽ đứng ra tố cáo các ông rồi tự tử. Tôi nêu số tiền khổng lồ như vậy là để xem nếu họ không đồng ý thì mình còn có cớ thoái thác. Tôi biết các ông ấy có rất nhiều tiền (ông Mạnh từng khoe với vợ tôi là ông có những 3 tỷ USD); thêm nữa, để “cứu được cả nước Việt Nam khỏi sụp đổ” thì xem ra số tiền đó còn chưa thấm vào đâu. Vợ tôi đi gọi điện ngay cho ông Mạnh. Ông nói, “Cám ơn con, ngàn lần cám ơn con. Con đòi một tỷ chứ hơn nữa cũng có!” Các ông dự định thứ Năm, 21/6, sẽ huy động đủ tiền. Sau khi nhận tiền xong, trong tài khoản và bằng tiền mặt, Trọng sẽ đem vợ con tôi ra nước ngoài sinh sống (anh ta từng nói với vợ tôi là sẽ coi con tôi như con đẻ của mình).
Lúc chưa quyết định thì lòng dạ rối bời, bất an. Đến khi quyết định rồi, thấy không còn lo lắng gì nữa thì ruột gan cả hai đều như bị dao cắt từng khúc. Ai cũng cố làm cho người kia khỏi buồn tủi nhưng vẫn không sao kìm nén nổi. Vợ tôi dường như đã buông xuôi. Phần vì quá mệt mỏi sau bao năm truân chuyên lận đận, phần vì thương tôi sau bao tháng ngày cơ cực vì mình và muốn tôi có một số tiền lớn để ít nhiều lấy lại danh dự. Phần nữa cũng vì sức ép, sự cầu xin, kể cả đe doạ, của các ông bố nuôi. Ngoài ra, có muốn trốn đi thì cũng không còn tiền, lại chưa biết an nguy thế nào, có đủ sức chịu đựng nữa hay không. Vợ tôi còn 30 triệu VNĐ trong tổng số 60 triệu trước đây ông Mạnh gửi cho nhưng lại đang cho người khác vay mà họ chưa thể trả được. Còn 100 triệu ông Mạnh gửi qua chỗ ông Thắng thì mấy lần liên lạc với vợ chồng ông Thắng đều không được, khi gọi được thì ông Thắng nói cả hai vợ chồng ông đang bị “giam lỏng” ở Hà Nội. Ông Thắng còn cho biết, Trọng đang đi Paris mua nhà để đón vợ tôi sang, sáng thứ Năm (21/6) sẽ về đến Hà Nội. Họ đã làm đủ mọi cách hòng khiến vợ chồng tôi phải đầu hàng. Tôi đã cố thuyết phục vợ tôi mấy lần nhưng dường như cô ấy đã cam chịu số phận. Thế nhưng tôi không vì thế mà buông xuôi được. Tôi biết vợ tôi mới chính là người phải chịu nhiều đau đớn, mất mát nhất, sẽ bị dày vò cả thể xác lẫn tinh thần. Sợ rằng bây giờ đôi lúc tỏ ra mạnh mẽ thế nhưng rồi khi cách xa nơi đất khách quê người liệu em có chịu đựng nổi hay không. Dù nói cứng vậy nhưng mấy hôm đó trông em vẫn cứ như người mất hồn, đến nỗi tôi bảo đi chụp mấy bức ảnh trước lúc xa nhau để làm kỷ niệm mà em cũng chẳng thể có lấy một chút tâm trạng nào để làm điều đó. Tôi biết, tình yêu mà em dành cho tôi lớn lao vô cùng và không gì có thể sánh nổi, chính các ông bố kia hiểu rất rõ điều đó. Đối với em, tình yêu ấy dường như là tất cả ý nghĩa của cuộc đời này. Vậy thì khi người ta không còn thương em nữa, tôi lại càng không thể bỏ rơi em được.
Sáng ngày 17/6, như có linh tính mách bảo điều gì, tôi nói với vợ là tôi đi mua báo về đọc. Tôi không mua báo mà đến thẳng nhà ông Thắng trên đường Nguyễn Trãi, gần Nhà máy bia, với hy vọng mong manh là sẽ gặp được vợ chồng ông Thắng để hỏi lấy số tiền 100 triệu đồng trước đấy ông Mạnh gửi cho vợ chồng tôi để chạy trốn. Thật bất ngờ, khi tôi đến nhà gặp con ông rồi hỏi han thì được biết vợ ông đang đi ăn sáng bên kia đường còn ông Thắng đang đi uống cà phê. Chưa hết sửng sốt, vợ ông và sau đấy chính ông Thắng đã tỏ ra tỉnh bơ khi tôi hỏi về vợ tôi, khiến tôi chẳng còn biết ăn nói gì, đành bịa ra một chuyện khác rồi cáo từ. Tôi cảm thấy lần này thì mình bị lừa dối thực sự. Về nhà, tôi lập tức truy vấn vợ là tại sao vợ chồng ông Thắng ở nhà mà em lại bảo là đang ở Hà Nội. Vợ tôi rất bức xúc và không biết giải thích với tôi thế nào. Vợ tôi gọi điện cho ông Mạnh, “Bố mau thu xếp vào luôn rồi đưa con đi. Chồng con không còn tin con nữa. Con không chịu nổi nữa rồi.” Ông Mạnh vừa khóc vừa nói, “Con cố gắng kéo dài tình hình cho đến thứ Năm đi, Trọng đi Paris chưa về còn tiền thì chỉ mới huy động được một nửa.”
Tôi yêu cầu vợ tôi phải kể toàn bộ sự thật. Thì ra, tất cả là âm mưu của ông Mạnh, người đã làm đủ mọi cách hòng khiến tôi phải nghi ngờ vợ. Ông Thắng đã ngả về phía ông Mạnh và ông Hải, hai người này cặp với nhau và cô lập ông Dũng, người duy nhất đến giờ phút này còn thực lòng thương vợ chồng tôi. Chính ông Thắng là người đã khuyên vợ tôi bỏ tôi để “chọn con đường có tương lai hơn.” Vợ tôi gọi điện cho ông Thắng, ông này nói ông Mạnh và ông Hải đã ép ông ta. Ông Thắng đã được các ông này cho rất nhiều tiền để mua chuộc, nhờ đó ông ta có tiền để sửa nhà và mua ô tô riêng. Ngoài ra, ông ta còn sắp được đưa ra Hà Nội giữ một chức vụ quan trọng nếu muốn.
Còn ông Dũng, sau hai lần lừa dối chúng tôi, là người mà có lúc vợ chồng tôi tưởng không thể nào tin tưởng được nữa, thì lại chính là người vẫn thực lòng thương vợ chồng tôi. Ông cho vợ tôi biết, sau khi vợ tôi gọi điện cho ông Mạnh nói rằng tôi không còn tin cô ấy nữa, ông Mạnh liền gọi điện cho ông Dũng và vui mừng báo tin, “Kế hoạch đã thành công!” Vợ tôi gọi điện cho Trọng (lúc này tôi bảo vợ tôi cứ giả vờ ngọt nhạt với anh ta) thì anh ta nói, “Nghe ông ngoại [tức ông Mạnh] gọi điện qua mà mừng thật!” Thế là đã rõ, ông Mạnh, người mà chúng tôi từng tin tưởng nhất, đã lừa dối vợ chồng tôi. May mà chúng tôi đã không nghe theo lời ông ta để ông ta đưa đi trốn, nếu không có lẽ rồi cũng sẽ bị ông ta bán đứng. Vợ tôi cho tôi biết thêm là thời gian vợ chồng tôi đang ở khách sạn Công Đoàn, ông Mạnh có hỏi vợ tôi là có còn tiền không. Vợ tôi nói là tiền đang cho vay. Ông hỏi lại, “Có thật không? Bố đang cần tiền, con gửi số tiền đó ra cho bố được không?” Ông còn nhai đi nhai lại chuyện tiền nong đến mức vợ tôi không thể chịu nổi liền tức tốc vay nóng 60 triệu từ bà Tý, trùm cho vay nặng lãi ở Đông Hà, và gửi ra trả cho ông Mạnh. Ông sợ vợ chồng tôi còn tiền thì sẽ bỏ trốn.
Ông Dũng tâm sự với vợ tôi, “Thực ra tội của bố nhẹ hơn ông Mạnh nhiều. Bố chẳng qua là bị ông Hải lừa mà thôi. Mấy hôm nay bố đã suy nghĩ rất nhiều rồi. Cho dù bố còn có thể tại chức 10 năm nữa, bố vẫn sẽ từ bỏ tất cả và đi thật xa. Không biết bây giờ con và Hùng có còn tin bố nữa hay không. Nhưng con hãy cho bố cơ hội cuối cùng này nữa thôi để bố chuộc lại lỗi lầm của mình, để sau này ở nơi xa không gặp được con nữa bố chết cũng còn nhắm mắt được. Nếu bây giờ các con mà bỏ đi thì thằng Trọng sẽ nổi điên lên mà các con cũng chịu thiệt. Con cứ chờ đến tối thứ Tư (20/6), bố sẽ đi máy bay vào Huế rồi ra Đông Hà, khoảng 2-3 giờ sáng bố sẽ đến gõ cửa nhà con, đưa tiền rồi đem các con đi trốn luôn. Bố đang cho người bán chiếc xe của bố. Sau đấy bố sẽ tự thú và bỏ đi thật xa để sống.” Ông Dũng cho vợ tôi biết là Trọng đòi ông Mạnh phải giết tôi, vì anh ta sợ nếu tôi còn sống thì sau này kiểu gì vợ tôi cũng sẽ tìm đường về với tôi. Đặc biệt, ông Hải rất muốn giết tôi vì tôi biết quá nhiều bí mật tội ác của ông ta.
Sáng 19/6, ông Dũng gọi điện hỏi vợ tôi thấy trong người thế nào. Vợ tôi nói là thấy trong người bồn chồn bất an. Ông Dũng nói, “Nếu con cảm thấy nóng ruột thì hai vợ chồng đi trốn đi. Trốn ở đâu thì sau gọi điện cho bố biết để bố gửi tiền cho.”
Vợ chồng tôi tức tốc thu xếp đồ đạc, cầm tạm của bà ngoại 4 triệu đồng tiền đám tang ông cậu, gọi taxi và lên đường chạy trốn vào thị xã Quảng Trị rồi đến nhà người vợ cũ của ông cậu vợ vừa mất. Bà này làm lẽ cho người khác và sinh thêm một đứa con gái. Hai mẹ con sống ở một nơi khá hẻo lánh của thị xã Quảng Trị. Tôi mua một cái sim Viettel mới để liên lạc. Vợ tôi gọi điện về nhà (qua người khác) thì được mẹ cho biết Trọng cứ gọi điện suốt, xưng hô mẹ con với bà. Bà nói dối là vợ chồng tôi đang cãi nhau và cùng mấy người nữa đi biển Cửa Việt mấy hôm nữa mới về.
Mãi tới ngày thứ Bảy 23/6, vợ tôi mới gọi điện cho ông Dũng. Sau đấy ông Dũng đưa máy cho vợ tôi nói chuyện với ông Mạnh. Vợ tôi nói dối với các ông là đang ở Đà Nẵng để đề phòng. Ông Dũng cho biết là Trọng đã biết vợ chồng tôi bỏ trốn, suốt mấy hôm vừa rồi ông vô cùng lo lắng. Cả ông Mạnh cũng thế. Trọng nổi cơn điên lồng lộn nhưng cả ông Dũng và ông Mạnh cứ mặc kệ, để nó muốn làm gì thì làm. Hai ông bảo với Trọng, "Con Phương nó có yêu mày đâu, ở với mày thì làm sao hạnh phúc được." Ông Hải cũng lồng lộn không kém, một hai đòi truy tìm bằng được tôi vì sợ tôi sẽ đi tố cáo. Ông ta còn dám đưa tính mạng của mình ra đánh cuộc với ông Mạnh, ông Dũng là kiểu gì tôi cũng sẽ đi tố cáo. Hai ông kia cũng buông xuôi và nói, "Thằng Hùng có đi tố cáo thì cũng phải chấp nhận, nó có quyền làm thế." Lúc này cả Công an Việt Nam và Công an Trung Quốc đã phát lệnh truy nã Trọng gắt gao (anh ta từng bắn chết hai công an Trung Quốc khi bị truy bắt). Phần vì chán nản sau bao năm theo đuổi vợ tôi mà không thành, phần vì không thể chần chừ thêm ở Việt Nam, Trọng yêu cầu ba ông Mạnh, Dũng, Hải phải chu cấp cho anh ta 5 tỷ USD để anh ta đưa Thuỷ và con gái ra nước ngoài sinh sống. Ngoài số tiền 1 tỷ USD đã chuẩn bị sẵn (lẽ ra đưa cho tôi), các ông phải xoay đủ 4 tỷ còn lại trong vòng 1 tuần, nếu không thì anh ta sẽ tung chứng cứ phạm tội của các ông lên mạng. Ông Mạnh vô cùng xấu hổ và hối hận, ngỏ lời xin lỗi vợ chồng tôi. Đồng thời, ông cũng rất mong tôi đừng viết gì để tố cáo họ, nếu được như thế thì ông sẽ vô cùng biết ơn tôi (các ông rất e sợ chuyện đó vì tuy không nắm chứng cớ gì trong tay nhưng khả năng viết lách của tôi thì họ lại biết rõ). Hai ông hứa sẽ không để cho ai đụng đến tôi, đặc biệt là cho người giám sát ông Hải để xem ông này và Trọng có âm mưu gì nữa không. Ông Mạnh và ông Dũng dặn vợ tôi là 3 ngày nữa hãy gọi điện lại vì các ông đang bận (họp Bộ Chính trị để bàn về nhân sự Chính phủ nhiệm kỳ tới).
Đến ngày 26/6, vợ tôi mới gọi lại cho hai ông. Lúc này Trọng, Thủy và con gái đã ra nước ngoài ẩn náu, ngày đêm anh ta vẫn gọi điện thúc giục các ông chuyển tiền cho anh ta. Nhận thấy thái độ của hai ông có thể tin tưởng được, vợ tôi thú thật là đang ẩn náu ở thị xã Quảng Trị. Ông Mạnh và ông Dũng bảo vợ tôi gọi điện cho Trọng. Trọng nói là mặc dù vô cùng yêu vợ tôi nhưng biết không thể dành được trái tim cô ấy, và bây giờ thì đành chấp nhận, quyết định đưa Thuỷ và con gái đi. Anh ta cũng không quên chúc vợ chồng tôi hạnh phúc đồng thời nhắn nhủ ông Mạnh và ông Dũng là hãy cẩn thận với ông Hải. Vợ tôi khuyên Trọng hãy gắng tu thân tích đức mà làm lại cuộc đời.


Ngày 29/6, thấy tình hình có vẻ đã yên yên, vợ chồng tôi và con gái lại trở về nhà bà ngoại vợ. Ông Mạnh và ông Dũng gọi điện cho vợ tôi, nói là suốt mấy hôm xoay như chong chóng để huy động tiền cho Trọng nhưng vẫn không đủ, mới được thêm 2 tỷ USD mà bây giờ không còn biết xoay đâu nữa, trong người không còn một xu. Hai ông khẩn khoản nhờ vợ tôi tác động với Trọng xin giảm số tiền phải nộp cho anh ta. Vợ tôi nói, "Các bố làm được thì chịu được. Tham cho lắm vào thì chết!" (tính vợ tôi vẫn thế, không biết sợ trời đất gì cả) và định bụng sẽ không bao giờ gọi điện xin xỏ gì Trọng cả, một phần là cũng không muốn dính líu gì với anh ta nữa. Sáng hôm sau (30/6), vợ tôi nói cho tôi biết về đề nghị trên của hai ông. Tôi biết huy động một lượng tiền mặt khổng lồ lại gấp gáp như thế quả là một việc vô cùng khó khăn. Các ông tuy nhiều tiền của nhưng lại nằm ở đất đai, nhà cửa, cổ phiếu... không thể dễ dàng quy đổi nhanh ra tiền được. Tôi thực lòng thương các ông và cũng ý thức được rằng nếu hai ông bị Trọng vắt kiệt thì khó bề mà lo cho vợ chồng tôi nên mới thuyết phục vợ tôi gọi điện cho Trọng, nói khéo là coi như xin anh ta số tiền 2 tỷ đó nhưng thực ra mình không lấy mà để giúp các ông. Không ngờ Trọng lại đồng ý cho vợ tôi hai tỷ USD trên và yêu cầu các ông kia phải giao đủ cho vợ chồng tôi trong vòng hai tháng, tính từ ngày 1/7/2007, nếu không thì anh ta quyết sẽ không để yên cho các ông. Trọng nói, thực ra anh ta cũng có ý định là sau khi nhận hết tiền từ các ông kia thì sẽ tặng vợ chồng tôi một số tiền, tuy không lớn đến thế.
Để giải quyết mối hận thù với ông Hải, tôi chủ động đề xuất với ông Mạnh và ông Dũng một giải pháp là vì các ông tôi sẽ sẵn sàng tha thứ cho ông Hải, với một điều kiện là ông ta phải chuyển cho tôi khoản tiền 100 tỷ VNĐ để tôi lập một quỹ từ thiện, coi như giải tội cho ông ta và tôi sẽ không đụng đến số tiền ấy. Cả hai ông đều tỏ ra khâm phục nước cờ cao tay, một mũi tên trúng nhiều đích đó. Ông Hải gọi điện cho vợ tôi tỏ ý rất hối hận và nói nếu sau này được vợ chồng tôi tha thứ thì tôi ra điều kiện gì ông ta cũng chấp nhận.
Tôi biết ông Hải không dễ gì giết tôi, vì cả ông Mạnh và ông Dũng đều đã cảnh cáo ông ta. Mặt khác, nếu tôi mà bị mệnh hệ gì thì vợ tôi sẽ đứng ra tố cáo. Chưa kể, nếu vợ tôi vì tôi mà có hề hấn gì thì chắc chắn Trọng cũng không tha cho ông Hải. Tuy nhiên, với một con người như ông Hải thì không vì thế mà tôi mất cảnh giác, đề phòng được. Tôi liền gửi cho em trai tôi toàn bộ nội dung câu chuyện, phòng khi tôi ra Hà Nội (dự định vào ngày 5/7) mà có cơ sự gì thì nó sẽ tung bức thư lên mạng, để nếu có chết tôi cũng cam lòng.[6]
Tôi dự định ngày 5/7 sẽ ra Hà Nội. Tuy nhiên, đến đây lại xẩy ra một chuyện khác. Ông Mạnh và ông Hải đột nhiên bị công an theo dõi vì có thông tin rò rỉ là hai ông này dính líu đến buôn bán vũ khí, thế nên hai ông không dám manh động gì (chuyện này thì chính Trọng đã xác nhận với vợ tôi). Mặt khác, cả ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải cũng chưa muốn tôi ra Hà Nội ngay, mặc dù không thể cấm, vì sợ ra ngoài đó tôi vốn cộc tính, không giữ được bình tĩnh, trốn vào một đại sứ quán nào đó rồi tố cáo các ông, nhất là trong khi các ông hiện chưa thể xoay ra tiền để lo chỗ ở và các chi phí khác cho vợ chồng tôi (đây lại là một âm mưu mới của họ, quý vị sẽ thấy rõ ở phần sau). Ông Mạnh và ông Dũng vì thế tha thiết đề nghị tôi hãy ở lại Đông Hà thêm chừng 1 tháng cho đến khi công an không theo dõi ông Mạnh và ông Hải nữa, nếu sau khoảng thời gian đó mà hai ông không làm gì cho vợ chồng tôi thì tôi có quyền đi tố cáo các ông. Hai ông sẽ gửi tiền vào cho vợ chồng tôi thuê nhà ở. Tôi bảo vợ tôi nói lại với họ là tôi đồng ý ở lại Đông Hà. Mặt khác, về số tiền 2 tỷ USD mà Trọng yêu cầu các ông chuyển cho vợ tôi thì tôi nói sau khi chuyển xong số tiền đó cho vợ chồng tôi, nếu các ông cần gì thì tôi sẽ sẵn sàng chuyển lại giúp các ông chứ không lấy hết số tiền đó. Ông Mạnh và ông Dũng nói với vợ tôi là vô cùng biết ơn tôi, có sống cả đời cũng không trả hết cái ơn của tôi (!). Sau đấy, tôi còn giúp các ông này thêm một bước nữa là bảo vợ tôi nói với họ hãy cứ liệt kê các tài sản đất đai, nhà cửa lại cho đủ 2 tỷ USD rồi sang tên cho vợ chồng tôi, bởi bây giờ mà bán thì vừa khó, vừa không được giá. Danh sách tài sản sẽ báo cho Trọng biết để Trọng kiểm tra.
Tôi bảo vợ tôi nói ông Mạnh và ông Dũng gọi điện cho ba tôi để ông yên tâm. Ngoài ra, tôi cũng muốn sau khi ông Mạnh, ông Dũng gọi điện cho ba tôi thì em trai tôi sẽ tin vào nội dung bức thư tôi gửi để không manh động mà cho người này người khác đọc rồi rò rỉ thông tin ra ngoài. Ông Mạnh đồng ý và nói đợi ông Dũng đi Ấn Độ trở về thì ông Dũng sẽ gọi điện trước cho ba tôi còn ông Mạnh gọi sau.
Ông Dũng nhắn với vợ tôi là sau khi từ Ấn Độ trở về ông sẽ gọi cho ba tôi ngay. Ông cũng nói là ngay sau khi về tới Việt Nam (dự kiến là chiều tối ngày 6/7/2007), ông sẽ bí mật bay vào Huế gặp gỡ và đưa tiền cho vợ chồng tôi. Những thông tin đó, tôi cũng cho em trai tôi (Dũng) biết, và nói rằng chắc chắn trong ngày thứ Bảy hoặc Chủ nhật tới ông Dũng rồi ông Mạnh sẽ gọi điện cho ba tôi. Tuy nhiên, mãi đến 4h sáng ngày 7/7 ông Dũng mới về tới Hà Nội nên kế hoạch trên bị lỡ dở. Chiều tối ngày 7/7, ông Dũng gọi điện cho vợ tôi nói là sáng ngày mai, 8/7, khoảng 9-10h sáng ông sẽ gọi điện cho ba tôi. Tôi liền gọi điện ngay cho cho ba tôi tối hôm đó để sáng mai ông ở nhà đợi nghe điện thoại. Nhưng rồi, sáng 8/7 ông Dũng lại báo cho vợ tôi là ông quá bận nên không gọi được, khoảng 8, 9h tối rảnh rỗi ông sẽ gọi cho ba tôi. Tôi lại phải gọi cho ba tôi lần nữa để thông báo là buổi tối ba sẽ có cuộc điện thoại quan trọng. Thế nhưng, sáng hôm sau (9/7) vợ tôi gọi điện lại cho ông Dũng thì ông nói là đêm qua ông quá bận nên mãi đến lúc 11h15 ông mới gọi điện cho ba tôi, chuông đổ dài mà mãi không có ai cầm máy. Sau khi xem xong trận tứ kết Copa America 2007 Argentina-Peru, tôi gọi điện về cho ba tôi hỏi là tại sao tối qua lúc 11h15 có điện thoại mà không ai nghe máy. Ba tôi nói là làm gì có cuộc điện thoại nào đâu (điện thoại đặt ở gần giường ngủ ba tôi). Tôi lúc này mới nói thật, rằng người gọi điện là đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông bận quá nên mãi lúc ấy mới gọi điện mà không có ai cầm máy. Ba tôi nói, "Chắc là con bị 'ma ám' rồi, con cứ kiểm tra lại con đi." Tôi nói, "Con không điên, không bị ma ám gì cả. Mà nếu có bị thế thì cũng nội một hai ngày nữa thôi, không điên lâu nữa đâu. Trong ngày hôm nay chắc chắn ba sẽ có điện thoại." Về nhà một lúc, tôi thấy lòng dạ bất an nên lại ra tiệm Internet ngồi. Đến 9h30, vợ tôi hớn hở đội nắng đi bộ ra nói với tôi là ông Dũng đã gọi điện cho ba rồi. Tôi liền gọi điện ngay về cho ba tôi, song, phũ phàng thay, ba tôi cho biết là có cuộc điện thoại của một đứa trẻ con nào đấy, nói ấm ớ mấy câu giọng Bắc rồi dập máy, chứ làm gì có ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nào!?
Tôi thấy có điều gì bất bình thường. Quá uất ức trước cách hành xử như thế, tôi bảo với vợ tôi gọi điện cho ông Mạnh và ông Dũng nói rằng nếu trong ngày hôm nay hai ông không gọi điện gặp tôi thì có chuyện gì xẩy ra họ đừng trách tôi.
Ăn cơm trưa xong, thấy trong người bồn chồn khó chịu, tôi lại ra tiệm Internet ngồi. Đến khoảng 2h30 chiều, tôi về nhà thì được biết vợ tôi đã bế con lên taxi đi đâu không rõ. Một lúc sau phát hiện thấy vợ tôi bế con về từ đằng xa. Tôi liền chạy ra hỏi cho rõ nguồn cơn. Thì ra, ông Dũng vừa đi máy bay vào Huế rồi ra Đông Hà gọi điện cho vợ tôi đến gặp ông. Ông bảo vợ tôi đừng cho tôi biết mà chỉ gặp riêng vợ tôi thôi. Nói chuyện với vợ tôi, ông cho biết tất cả lại đều do ông Mạnh giật dây. Ông Mạnh không muốn tôi cũng như những người thân khác trong gia đình tôi biết được câu chuyện này nên đã yêu cầu ông Dũng không gọi điện cho ba tôi. Ông ta sợ rằng nếu tôi (cùng những người thân của tôi) biết được sự liên can của ông trong câu chuyện thì sớm muộn gì nó cũng sẽ lộ ra. Chi bằng sau khi nhận xong số tài sản (2 tỷ USD) trên thì vợ chồng tôi và các ông đường ai nấy đi, coi như không quen biết gì nhau và những gì tôi đã kể trên đây là không có thực. Ông Dũng còn đi với một người mà ông khẽ nói với vợ tôi rằng đấy là người của ông Mạnh, đi theo ông để giám sát và ngăn không cho ông Dũng gặp tôi. Ông Dũng nói rằng do vợ tôi thúc dục dữ quá nên chính ông đã gọi điện cho ba tôi nhưng ông lại giả giọng Bắc khi nói chuyện. Ông Dũng cũng nói Trọng gọi điện trấn an vợ tôi và đảm bảo với vợ tôi là sẽ không có chuyện gì lừa gạt ở đây cả.[7]
Đến đây thì mọi người có thể đánh giá ông Mạnh là người thế nào. Sau cuộc trốn chạy ngày 19/6, vợ chồng tôi đã thực lòng tha thứ cho cả ông Mạnh và ông Dũng. Ngay cả với ông Hải, một người vốn có rất nhiều dã tâm đối với tôi mà tôi còn sẵn lòng gác chuyện hận thù qua một bên. Tội lỗi của các ông ấy đâu phải chỉ mỗi vợ chồng tôi biết mà ngoài Trọng ra còn có thuộc hạ thân tín của Trọng rồi cả ông Thắng cùng vợ ông biết, và chắc chắn nhiều người khác cũng biết. Vợ ông Thắng là người rất tích cực trong vụ dàn dựng màn kịch khi tôi đến nhà ông Thắng sáng ngày 17/6 và bà ta cũng đã moi được khá nhiều tiền từ các ông này. (Trước đây bà ta cũng từng nghi ngờ chuyện ông Thắng dan díu với vợ tôi. Thời gian ông Thắng đột ngột biến mất dài ngày để giúp ông Dũng lo giải quyết chuyện ông Hải tại nhà tay trợ lý cũ của ông này ở Quy Nhơn, Bình Định thì vợ ông lại càng nghi ngờ. Ông Dũng bèn mời bà ta ra Hà Nội và được cả ông Mạnh tiếp và đứng ra đảm bảo nên bà ta mới hết nghi ngờ chuyện ông Thắng với vợ tôi.) Trong thâm tâm, sau bao cực nhọc, truân chuyên đã nếm trải, tôi rất thương vợ và chỉ muốn vợ chồng tôi được yên ổn, không phụ tình thương yêu mà dù sao các ông cũng từng dành cho vợ chồng tôi. Và cuối cùng, với số tiền có được, vợ chồng tôi sẽ thoả tâm nguyện từ thiện trong cái xã hội đầy dối trá và bất công này. Thế mà họ lại đang tâm định lừa dối vợ chồng tôi thêm lần nữa.
Ông Hải là con người thế nào thì mọi người đã rõ. Ông ta còn phạm một tội ác tày trời nữa là thời gian Trọng còn làm ở Tràng Tiền Plaza, một lần Trọng có giao cho ông ta hai cô nhân viên bán hàng mới 16-17 tuổi còn trinh tiết để ông ta xài một cô còn một cô cung phụng cho sếp của mình. Sếp của ông ta say nên dễ dàng sa bẫy, đến khi tỉnh lại thì hoảng sợ vì cô gái kia biết mặt, có thể tố cáo. Ông Hải bèn nói, “Anh cứ yên tâm. Em sẽ đưa nó đi thật xa và làm cho nó điên dại không còn nhớ gì cả.” Sau đó, ông Hải đã cho bọn xã hội đen thủ tiêu hai cô gái xấu số kia. Vị sếp đó không ai khác hơn là ông Dũng. Chính ông Dũng đã sám hối và thú nhận với vợ tôi chuyện ấy (tất nhiên là trước khi xẩy ra cơ sự - vợ tôi thuật lại cho tôi hầu như toàn bộ tình tiết để tôi chắp nối thành một câu chuyện logic nhưng những bí mật ruột gan của các ông ấy thì chỉ khi không còn cách nào khác cô ấy mới buộc phải nói cho tôi biết). Ông Mạnh cũng từng cho vợ tôi biết là phía sau chiếc bàn làm việc ở cơ quan của ông là cả một kho của cải bí mật mà người ta hối lộ hay chia chác cho ông.
Tôi rất tiếc cho ông Mạnh, người mà tôi biết là đã hết lòng thương yêu vợ tôi. Ông từng nói rằng ông yêu quý vợ tôi còn hơn cả bản thân mình, rằng nhiều lúc ông không tin vào bản thân mà chỉ tin vợ tôi. Ông Mạnh từng đặt ảnh cưới của vợ chồng tôi trên bàn làm việc của mình, đã lên kế hoạch là ra Tết Đinh Hợi sẽ cho hai vợ chồng tôi ra mắt gia đình ông một cách công khai.[8] Tuy nhiên, khi bị ông Hải (?) ép buộc phải lựa chọn, ông đã chọn cách giữ lấy sự nghiệp của mình và cơ nghiệp mà thân sinh của ông đã tạo dựng nên. Dù sao, đứng trước sự lựa chọn nghiệt ngã đó, ông cũng là kẻ đáng thương nhiều hơn là đáng trách. Riêng vợ chồng tôi chỉ tiếc rằng ông đã lừa dối chúng tôi trong khi ông thừa biết khi quyết định chia lìa nhau, vợ chồng tôi đã nghĩ đến ông rất nhiều, cũng như sau đó tôi đã không đành lòng đứng ra tố cáo là vì tôi vẫn còn trân trọng những tình cảm mà các ông đã từng dành cho vợ chồng tôi.


Tôi xin nói qua một chút về bản thân. Tôi sinh ngày 27/8/1973 tại Hà Tĩnh, tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội khoá 1992-1996; số CMND 012191640 do Công an Hà Nội cấp ngày 15/7/2004; hộ khẩu thường trú: Tổ 2, Cụm 5, Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội. Tôi là dịch giả của cuốn Friedrich Hayek - Cuộc đời và sự nghiệp (Friedrich Hayek - a Biography) của Alan Ebbenstein, do Nhà xuất bản Tri thức ấn hành tháng 6/2007. "Một cuốn sách gây ấn tượng mạnh" - đó là lời nhận xét giới thiệu tác phẩm trên trang web của Liên hiệp các Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Cuốn sách đem đến cho chúng ta một hình dung đầy đủ về một xã hội thực sự tự do, dân chủ, nhân văn và phồn thịnh trên tinh thần "thượng tôn pháp luật" hay “pháp trị” - con đường đi lên tất yếu của dân tộc. Tuy nhiên, con đường đó dài hay ngắn, viễn cảnh đó diễn ra sớm hay muộn lại chỉ tuỳ thuộc vào thái độ dứt khoát cởi bỏ những trói buộc, những gánh nặng do chính sự rồ dại của con người dựng lên trong quá khứ và hiện đang do một nhóm người có quyền lợi cứ khư khư giữ lấy. Khi mà mỗi một thế hệ thanh niên Việt Nam rời khỏi ghế nhà trường bước vào đời đều được cài đặt sẵn cái hệ điều hành Marx–Lenin “vô địch” thì tương lai dân tộc xem ra vẫn còn luẩn quẩn và trắc trở lắm, trong khi những bất công cùng bao nỗi oan khuất của người dân vô tội thì ngày một thêm chồng chất.
Ba tôi hiện trú tại xã Cẩm Thăng, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh - điện thoại 039 861994. Mẹ tôi trú tại phường Đại Kim, Thanh Xuân, Hà Nội - điện thoại 04 5594095. Số điện thoại liên lạc của bà ngoại và mẹ vợ tôi là 053 562917, nhà ông Tuấn con trai trưởng bà ngoại vợ tôi ở kế bên. Nếu ai đó có gọi điện hỏi thăm thì chỉ có thể biết là vợ chồng tôi còn sống hay đã chết chứ trong con mắt ba mẹ và người thân của tôi thì vợ tôi vẫn là một kẻ khốn nạn, lăng loàn, bày trò lừa dối chồng, còn tôi là một kẻ tâm thần, hoang tưởng. Riêng nhà vợ tôi thì vẫn hầu như không hay biết gì về những chuyện trên đây, vợ tôi không muốn cho họ biết vì sợ họ lo lắng hoặc không biết giữ mồm giữ miệng. Hơn thế, với nhận thức quá đơn giản, những người thân của vợ chồng tôi làm sao có thể hiểu nổi những gì đã xẩy ra.
Thêm một thông tin quan trọng nữa là ngay trước thềm Đại hội Đảng CSVN lần thứ X, vợ tôi lúc ấy đang mang bầu tháng thứ 3 đã phải thân chinh lên tàu ra Hà Nội. Ý tứ của các ông là muốn vợ tôi trở thành trung tâm đoàn kết và đem lại may mắn cho họ. Ra Hà Nội, vợ tôi ngụ tại khách sạn Daewoo đồng thời có gặp và tiếp chuyện ông Nguyễn Minh Triết, lúc ấy còn là Bí thư Thành uỷ Tp Hồ Chí Minh, bây giờ là Chủ tịch nước. Sau đấy vợ tôi cũng có một số lần nói chuyện qua điện thoại với ông Triết. Quý vị chớ có ngạc nhiên nếu như ông Triết đính chính hay phủ nhận thông tin nói trên, bởi thời gian sau này ông Hải đã tìm cách kết thân với ông Triết và giả như ông ta có "trói" ông Triết như đã làm với ông Dũng và ông Mạnh thì cũng chẳng có gì là lạ. Vả chăng, ở cái xứ sở này, việc ông Triết mặc áo giấy thay vì khoác áo cà sa là một chuyện quá ư bình thường. Vợ tôi ra đến Hà Nội sáng 15/4 và tối hôm đó quay trở về Đông Hà luôn. Ông Hải chở vợ tôi ra ga và nói, “Bố Dũng có gửi cho con 20 triệu nhưng bố đang cần tiền, nếu bố Dũng có hỏi thì con nói là đã nhận rồi nhé!!!”
Trên đây là tất cả những gì diễn ra cho đến ngày 9/7/2007. Từ đó cho đến thời điểm này (11/2007) còn rất nhiều tình tiết ly kỳ cũng như những âm mưu thâm độc, xảo quyệt nữa mà hiện tôi chưa kịp cập nhật, khi mà bọn họ vẫn tìm mọi cách hòng chia lìa vợ chồng tôi và sau đó sẽ thủ tiêu tôi, thậm chí cả gia đình tôi, bởi họ đã nắm được việc tôi gửi tin cho em trai mình. Tôi hy vọng sẽ còn có dịp kể thêm cho mọi người biết nhưng chừng đó thôi cũng đã đủ cho toàn thể nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước cùng cộng đồng quốc tế thấy được bộ mặt thật của chế độ chính trị thối nát này, cái quái thai của lịch sử đã gieo rắc bao tai ương và tội ác cho dân tộc suốt hơn 60 năm qua.


(Qua đây mọi người cũng có thể hiểu tại sao Việt Nam hiện nay không chỉ có ba, hay bốn mà đến những 5 phó thủ tướng, cho dù trước đấy ông Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh đến việc bỏ khâu trung gian, giảm cấp phó trong quản lý, điều hành và bất chấp năng lực của ông Hải đã thể hiện qua tình trạng thiếu hụt điện nghiêm trọng kéo dài bao năm qua.[9] Cố nhiên, tham vọng của ông Hải không chỉ dừng lại ở đó, ông ta đang nhắm đến ngôi vị lãnh đạo cao nhất của đất nước này. Đấy cũng là một động cơ quan trọng khiến ông ta tìm mọi cách bịt miệng tôi.)
Tôi mong ông Mạnh, ông Dũng, ông Hải hãy hiểu rằng, các ông có quyền lựa chọn cho bản thân nhưng lại không để cho tôi một lựa chọn nào khác ngoài việc buộc phải nói lên sự thật. Tôi cũng mong những ai chẳng may phải chịu ít nhiều phiền luỵ qua câu chuyện này xin hãy nhận lấy ở tôi lời tạ lỗi chân thành nhất và hãy rộng lòng lượng thứ cho tôi, bởi họ là một phần trong diễn tiến lôgic của câu chuyện. Sự thật dù trần trụi đến đâu cũng cần được tôn trọng. Xã hội này đã bị sự dối trá, bịp bợm làm cho tha hoá, suy đồi, chỉ có sự thật mới mong cứu rỗi được nó. Cuối cùng, tôi hy vọng rằng bi kịch của vợ chồng tôi, của gia đình tôi hay của chế độ chính trị này chính là thời cơ trỗi dậy của đất nước, là bước ngoặt lịch sử của dân tộc trên con đường tiến tới một xã hội tự do, dân chủ, văn minh và phồn thịnh. Nếu được vậy, dẫu chết tôi cũng cam lòng!
Quảng Trị - 11/2007
Lê Anh Hùng

PHẦN BỔ SUNG I
Sau cái ngày 9/7 kể trên, đã mấy lần tôi định bỏ trốn rồi tung bức thư tố cáo lên mạng. Thế nhưng tôi cứ lần lữa không đành, vì dẫu sao tôi vẫn còn nặng tình với ông Mạnh và ông Dũng lắm. Tôi hiểu được tình thế của các ông, dù rằng chắc chắn họ đã phụ bạc cả tình cảm lẫn thiện chí của tôi. Đồng thời tôi cũng thăm dò và nhận định rằng ông Hải chưa thể ra tay với tôi được (lúc này chính Trọng đã cảnh báo ông Hải là nếu đụng đến tôi thì anh ta sẽ quyết không tha cho ông ta). Ngoài ra, tôi cũng không muốn vợ con mình phải nếm trải thêm những truân chuyên và rủi ro, bất trắc nữa. Thời gian đó, vợ tôi vô cùng thất vọng với cách hành xử của các ông kia cũng như chán nản trước tình cảnh gia đình nên đã thỉnh cầu tôi ra nước ngoài sinh sống. Đầu tiên, ý tưởng đó đối với tôi chẳng có gì là hấp dẫn cả. Tôi không hề muốn ra nước ngoài sống. Nhưng rồi tôi cũng thấu hiểu nỗi lòng của vợ, hơn nữa tôi cũng ý thức được rằng nếu ở trong nước thì e khó tránh khỏi nguy hiểm. Tôi quyết định sẽ đến London định cư. Vợ tôi vui mừng báo tin cho Trọng và nhờ Trọng thu xếp hộ chiếu, visa. Vợ tôi cũng thông báo điều này với ông Dũng. Ông nói, "Con cứ ra nước ngoài mà sống. Đừng nên ở lại Việt Nam làm gì nữa."
Gần cuối tháng 7/2007 thì Trọng làm xong hộ chiếu và visa cho cả hai vợ chồng tôi. Thế nhưng, vợ tôi đi xem bói và được biết là tôi đang bị hạn nặng, nếu ra đi lúc này thì sẽ nguy hiểm đến tính mạng của con gái. Phải đến hết tháng 8 AL, tức sang giữa tháng 10/2007, chúng tôi mới có thể đi được. Kế hoạch vì thế phải hoãn lại và vợ chồng Trọng ra nước ngoài trước. Thời gian tiếp theo đó lại là những tháng ngày vất vả, cực nhọc của vợ tôi cộng với những căng thẳng và ức chế thần kinh của tôi. Lúc đầu tôi quyết tâm sẽ cố chịu đựng và ở tại nhà bà ngoại vợ cho đến ngày hết hạn để lên đường. Điều này chủ yếu bắt nguồn từ một lý do tâm linh sau khi vợ tôi đi xem bói về. Nhưng rồi cái cảnh ầu ơ nheo nhóc hàng ngày đã khiến tôi không sao chịu nổi và đến ngày 30/7 thì mâu thuẫn nổ ra trong gia đình, vợ chồng tôi bỏ nhà ra thuê phòng tại khách sạn Sao Mai cách đó không xa để ở. Ông Mạnh, ông Dũng và ông Hải vẫn tiếp tục theo đuổi âm mưu hòng làm lung lạc lòng tin của tôi, khiến tôi phải nghi ngờ vợ mà bỏ đi. Họ không hề gửi tiền cho vợ chồng tôi sinh sống, mặc dù chính họ đang "nợ" chúng tôi đến 2 tỷ USD.
Một lần vợ tôi liên lạc với tay Việt kiều Trương Đức Hải và được biết là ông Nguyễn Đình Trường có hỏi thăm về vợ chồng tôi, nhưng chưa biết ý tứ vợ tôi thế nào (đoán chắc là vợ tôi không muốn) nên anh này đã không cho ông Trường biết tình cảnh cũng như địa chỉ vợ chồng tôi. Tay Hải Việt kiều này còn cho vợ tôi biết thêm là ông Trường nói với anh ta rằng ông vẫn thường xuyên đi chùa cầu nguyện cho hai vợ chồng tôi, rằng chính vì tội lỗi của ông mà vợ chồng tôi mới ra nông nỗi này, không biết bây giờ sống chết thế nào. Tôi biết ngày xưa ông Trường thương vợ tôi lắm, nay lại biết thêm tấm chân tình của ông nên tôi khuyên vợ liên lạc với ông Trường, trước mắt là để nhờ ông giúp đỡ về tài chính. Trọng cho vợ tôi số điện thoại ông Trường và cô ấy đã gọi cho ông. Vợ tôi kể qua sự tình hai vợ chồng từ ngày chạy vào Đông Hà cho đến thời điểm đó. Ông Trường khóc và nói, "Không ngờ bố đã khốn nạn rồi mà lại có kẻ còn khốn nạn hơn!" Ông nói để ông thu xếp rồi mấy hôm nữa ông sẽ ra Đông Hà thăm vợ chồng tôi. Thế nhưng, đợi mấy hôm mà chẳng thấy tăm hơi ông Trường đâu, ông cũng chẳng liên lạc gì với vợ tôi cả. Đến khi vợ tôi gọi điện lại thì thấy thái độ của ông có vẻ ấp a ấp úng, viện ra lý do này lý do nọ để khất lần.
Bức bách quá (một phần do tôi thúc ép), ngày 26/7/2007 vợ tôi mới gọi điện cho ông Lê Quốc Ân. Vợ tôi kể qua cho ông nghe sự tình. Ông cũng khóc thương cho tình cảnh vợ chồng tôi và tỏ ý nói những gì đã qua thì hãy cho qua. Biết vợ chồng tôi đang gặp khó khăn về tài chính, ông Ân hỏi vợ tôi về số tiền mà Vinatex thưởng cho xem cô ấy đã nhận chưa. Đến lúc này vợ tôi mới biết là sau khi vợ chồng tôi chạy vào Đông Hà lánh nạn, Vinatex quyết định trích thưởng 0,5% doanh số hợp đồng mà vợ tôi ký được (xấp xỉ 130 tỷ VNĐ). Số tiền thưởng lên tới 6-7 trăm triệu chứ không ít. Vợ tôi nói rằng không hề biết gì về chuyện thưởng đó, rằng trước đây ông Hải có nói là ông ta đã điều tra và biết ông Ân đã cho bán cái hợp đồng khổng lồ kia ra ngoài để kiếm chác. Ông Ân bảo vợ tôi liên lạc với bà Mai, là kế toán trưởng thời điểm vợ tôi vào làm ở Vinatex, vì số tiền khi ấy được giao cho bà Mai để bà này chuyển cho vợ tôi. Vợ tôi liền gọi cho bà Mai và hỏi về số tiền thưởng trên. Lúc đầu bà ta chối là không biết gì cả, rồi lại nói là để bà xem lại và sẽ gọi điện cho cô ấy sau. Ngày 27/7, bà Mai gọi điện cho vợ tôi thú nhận là thời gian trước đấy do không liên lạc được với cô ấy nên bà đã lỡ tiêu số tiền đó. Bây giờ thì mới xây nhà xong nên rất kẹt tiền, trong vòng 10 đến 20 ngày nữa bà sẽ xoay đủ và trả cả tiền lãi. Vợ tôi giao cho bà trong vòng 10 ngày phải trả đủ số tiền nói trên. Vợ tôi nói chỉ cần trả 600 trăm triệu là được rồi, tiền lãi cũng không cần lấy nốt. Tuy nhiên, bà Mai nói là bà nhất định sẽ trả hết tiền gốc (670 triệu) và thêm 100 triệu tiền lãi nữa.
Ngày 6/8/2007, vợ tôi gọi điện cho bà Mai. Lúc này bà Mai mới cho vợ tôi biết một sự thật là số tiền thưởng của vợ tôi không phải là do bà ỉm đi mà là theo yêu cầu của ông Hoàng Trung Hải, lúc ấy còn là bộ trưởng, bà đã chuyển cho ông ta để ông ta với danh nghĩa bố nuôi sẽ chuyển cho vợ tôi. Thế là đã rõ, ông Hải đã ỉm số tiền thưởng của vợ tôi rồi còn bịa ra chuyện là ông ta đã điều tra và biết ông Lê Quốc Ân đã bán cái hợp đồng 120 tỷ VNĐ kia ra ngoài để vợ tôi không nghi ngờ gì và không hỏi gì về tiền thưởng. Khi nghe vợ tôi gọi điện, bà Mai sợ quá vì ông Hải nay đã là Phó Thủ tướng, nên bà đành phải chối. Sau đó bà gọi điện cho ông Hải thì ông ta nói với bà là số tiền đó đã được chuyển cho vợ tôi rồi. Nhưng sau đó ông ta cũng nói là cho ông ta 10 ngày để ông ta lo liệu.


Đến hẹn, bà Mai gọi điện hỏi thì ông Hải nói là vẫn chưa xoay được tiền. Không còn cách nào khác, bà Mai đành phải thú thật với vợ tôi. Vợ tôi liền gọi điện và chửi cho cho ông Hải một trận. Ông ta nói, "Để bố thu xếp và ít hôm nữa bố sẽ gửi cho con." Và bắt đầu từ hôm đó là chuỗi điệp khúc những lời hứa (hão) của ông Hải về việc chuyển cho vợ tôi số tiền thưởng nói trên. Ông ta còn trơ trẽn đến mức có lần ông ta nói với vợ tôi là đã chuyển rồi, hay "Bố chừng này tuổi rồi mà còn đi lừa con à..." Mục đích của ông ta không là gì khác: ông ta biết mọi chuyện vợ tôi đều cho tôi biết nên bằng cách đó ông ta hy vọng có thể khiến tôi phải nghi ngờ vợ, đồng thời nghi ngờ toàn bộ câu chuyện kể trên, rồi ruồng bỏ vợ mình. Tuy nhiên, tôi đã lường trước thái độ hành xử của ông Hải nên với tôi những diễn tiến trên không có gì là bất ngờ. Ông Trường, ông Ân cũng cho vợ tôi biết là hai ông đã bị ông Hải đe doạ và khống chế, cấm liên lạc hay chuyển tiền cho vợ tôi. Hai ông này đều đã dính "phốt" và bị ông Hải, lúc này đã là Phó Thủ tướng, nắm được "thóp" nên không dám trái ý ông ta. Lần duy nhất ông Hải chuyển tiền cho vợ tôi là khi vợ tôi bị bà Tý trùm cho vay nặng lãi truy hỏi số tiền nợ (vợ tôi vay 60 triệu VNĐ để chuyển trả cho ông Mạnh thời gian chúng tôi tá túc ở Khách sạn Công Đoàn). Vợ tôi đã trả được 30 triệu VNĐ (số tiền mà vợ tôi từng cho người khác mượn). Vợ tôi cho ông Hải số tài khoản của bà Tý và ông ta, sau khi vợ tôi cho biết là nếu không trả sẽ bị bọn xã hội đen "xử", mới chịu chuyển cho bà này 30 triệu VNĐ.
Thời gian chúng tôi ở khách sạn Sao Mai, Lê Văn Toại có liên lạc với vợ tôi (Trọng cho số điện thoại) và cho biết là bây giờ đã bỏ Cty Việt Tiến và thành lập một công ty kinh doanh vàng bạc. Anh ta ngỏ ý mời vợ chồng tôi vào Sài Gòn, giao cho vợ tôi phụ trách cửa hàng và tặng vợ chồng tôi một ngôi nhà để ở.
Vợ chồng tôi vẫn tá túc tại khách sạn Sao Mai cho đến hết tháng 8 AL (tháng hạn cuối cùng của vợ chồng tôi) và sang đầu tháng 9 AL (tức khoảng giữa tháng 10/2007). Vợ tôi cũng báo với Trọng để Trọng chuẩn bị về Việt Nam thu xếp đưa vợ chồng tôi đi London (cuối tháng 7/2007 Trọng đã mua cho vợ chồng tôi một ngôi nhà ở London). Thời điểm này vợ chồng tôi gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, do các ông kia không chịu gửi tiền đồng thời còn ngăn cấm ông Ân, ông Trường liên lạc hay gửi tiền cho chúng tôi. Trọng thì không dám gửi tiền cho vợ chồng tôi vì chính Trọng đã dính tai nạn cuối tháng 7/2007 trong một lần định bay vào Huế đưa tiền cho vợ chồng tôi (bị ô tô húc văng vào lan can đường và chấn thương sọ não). Trọng khiếp vía và sau đó sang Pháp điều trị, không dám "dây" với vợ chồng tôi trong thời gian chúng tôi đang chịu hạn.
Sự bức bách về tài chính giảm bớt phần nào khi NXB Tri thức gửi cho tôi 10 triệu VNĐ trong tổng số gần 16 triệu VNĐ tiền nhuận bút dịch cuốn sách Friedrich Hayek - Cuộc đời và sự nghiệp. Tối 15/10/2007, vợ tôi ra Hà Nội và sáng hôm sau đến NXB Tri thức thay mặt tôi ký hợp đồng dịch thuật, lấy số sách tặng cho dịch giả và nhận nốt số tiền gần 6 triệu VNĐ còn lại. Sáng sớm ngày 16/10 khi vợ tôi đi ô-tô ra đến nơi, ông Dũng có cho lái xe ra đón rồi đưa về một khách sạn trên đường Hoàng Diệu. Nhưng cả ngày hôm đó ông bận không gặp được vợ tôi mặc dù vợ tôi báo là tối hôm đó sẽ về lại Đông Hà. Ông bảo vợ tôi ở lại hôm sau hẵng về nhưng cô ấy không chịu. Đến tối, khi ông gọi điện lại thì vợ tôi đã trên đường vào Đông Hà.

Hôm sau, 17/10, vợ chồng tôi thanh toán tiền phòng ở khách sạn Sao Mai và đó là ngày đầu tiên sau chuỗi ngày dằng dặc kéo dài từ tận cuối tháng 10/2005 mà tôi cảm thấy khá là thanh thản trong lòng (thời gian ở khách sạn này tôi cũng phải chịu rất nhiều ức chế do chủ khách sạn cứ hay đòi tiền, mặc dù họ chẳng lạ gì vợ chồng tôi). Sau đó vợ tôi về lại nhà bà ngoại ở trong thời gian chờ Trọng về Việt Nam còn tôi lên đường vào Đà Nẵng chơi với bạn, những người bạn đầu tiên mà tôi gặp sau hai năm lánh nạn ở Quảng Trị. Tôi vào Đà Nẵng được hai ngày thì vợ tôi nhớ quá không chịu nổi, bắt tôi phải về. Chiều tối ngày 19/10 tôi về lại Đông Hà, ngụ tại khách sạn Nam Đông nằm trên đường Lê Duẩn, phía Nam Đông Hà. Thời gian này Trọng mới tiến hành phẫu thuật thay đổi khuôn mặt và đang trong thời gian phục hồi nên chưa thể về Việt Nam ngay.
Mãi tới thứ Sáu, ngày 2/11/2007, Trọng, Thuỷ cùng đứa con gái mới về tới Việt Nam. Tuy nhiên, do Trọng chủ quan không mang theo thuốc và lại phải quá cảnh ở vùng thời tiết lạnh giá nên khuôn mặt mới lên da non của Trọng bị khô tróc khá nghiêm trọng. Về đến Hà Nội, Trọng phải vào ở biệt trong một phòng của khách sạn Horizon và mời bác sỹ từ Paris sang để điều trị tiếp. Vì thế, Trọng hẹn vợ chồng tôi sang đầu tuần ra Hà Nội để làm thủ tục bàn giao tài sản trước khi lên đường sang London. Vợ chồng tôi định tối thứ Hai, 3/11, sẽ đi tàu ra Hà Nội thì đột ngột tối Chủ nhật con tôi bị sốt phát ban (nó đã nóng âm ỉ từ mấy hôm trước đó). Kế hoạch ra Hà Nội bằng tàu đành phải hoãn lại. Sau đó, Trọng quyết định bố trí xe ô tô vào đón vợ chồng tôi ra, sợ rằng đi tàu sẽ gặp gió ảnh hưởng tới sức khoẻ con gái tôi. Đột nhiên ông Dũng tới thăm Trọng, biết được kế hoạch ra Hà Nội của vợ chồng tôi bèn đề nghị với Trọng và vợ tôi là sẽ cho xe ô tô của ông (loại limousine 3 cửa) vào đón. Kế hoạch là sáng thứ Tư, 7/11, xe vào tới Đông Hà và tối hôm đó vợ chồng tôi cùng con sẽ ra Hà Nội. Thế nhưng sáng 7/11 chẳng thấy ô tô đâu. Vợ tôi liên lạc với ông Dũng thì ông cho biết là tối hôm qua ông và ông Mạnh đi tiếp khách về muộn nên sáng 7/11 xe mới bắt đầu xuất phát từ Hà Nội, đến khoảng 4, 5h chiều sẽ tới Đông Hà. Tay lái xe này còn liên lạc với vợ tôi, cho vợ tôi số điện thoại di động, hẹn là vào Đông Hà sẽ gọi. Lúc 10h sáng, vợ tôi gọi điện cho anh ta thì được biết xe đã đi qua thành phố Thanh Hoá. Đến khoảng 3h chiều vợ tôi gọi điện thì anh ta nói là đã tới Hà Tĩnh. Mấy hôm đó vì con ốm nên vợ con tôi nghỉ ở nhà bà ngoại còn tôi vẫn ở khách sạn Nam Đông một mình. Vợ tôi thông báo cho tôi hành trình chiếc xe vào đón. Nhưng đến lần thứ hai thì tôi đã bắt đầu thấy gợn chút nghi ngờ, bởi từ 10h sáng đến 3h chiều mà xe chỉ chạy được từ Thanh Hoá vào đến Hà Tĩnh (5 tiếng đồng hồ mà một chiếc limousine chỉ chạy được khoảng 150km!). Nỗi nghi ngờ về một âm mưu mới của các ông tăng dần lên trong tôi khi cho đến tận chập tối mà vẫn chẳng thấy ô tô đâu. Vợ tôi gọi điện cho lái xe thì máy không liên lạc được. Vợ tôi gọi điện cho Trọng thì Trọng nói "không hiểu chuyện gì đang xẩy ra cả", gọi điện cho ông Dũng thì ông nói ông cũng "không biết gì hết" (!?). Thực ra đây là điều mà tôi đã tiên liệu nên với tôi không có gì là bất ngờ. Tối hôm đó, vợ tôi tiếp tục ngủ ở nhà bà ngoại còn tôi vẫn nghỉ tại khách sạn.
Sáng hôm sau (8/11), tôi nói với vợ rằng chắc chắn các ông ấy đang tìm mọi cách ngăn không cho tôi ra Hà Nội, vì nếu tôi gặp Trọng rồi sang London thì sự thật mà bấy lâu nay tôi đã biết qua lời vợ kể nhưng lại chưa được "thực mục sở thị" sẽ bị phơi bày với những con người bằng xương bằng thịt, chứng cớ rành rành. Bởi thế, âm mưu vừa rồi là nỗ lực cuối cùng của họ hòng lung lạc niềm tin mà tôi vẫn dành cho vợ, khiến tôi ruồng bỏ vợ con - một kịch bản "xưa như trái đất" trong câu chuyện này và càng đọc quý vị sẽ càng thấy là những trò lừa gạt đó tuy vô cùng thâm độc nhưng cũng mới thật ấu trĩ làm sao. Lúc này, tôi nói với vợ là hãy bàn với Trọng, tương kế tựu kế với các ông kia, xem hành động vừa rồi như là giọt nước làm tràn li, niềm tin mà tôi vẫn dành cho vợ đã không còn nữa. Vợ con tôi sẽ ra Hà Nội trước, hoàn tất mọi thủ tục tài sản rồi sang London, sau đó sẽ tìm cách đón tôi đi. Vợ tôi gọi điện cho Trọng và Trọng đồng ý phương án như thế. Theo kế hoạch, tối hôm đó vợ con tôi sẽ đi ô tô chất lượng cao ra Hà Nội. Tuy nhiên, sau khi về lại khách sạn, trơ trọi một mình, nghĩ tới viễn cảnh xa vợ xa con mà lòng tôi quặn thắt không chịu nổi, nước mắt cứ vòng quanh. Chiều hôm ấy, tôi gặp lại vợ và định thay đổi phương án. Tôi bảo vợ gọi điện cho Trọng và nói là tôi không chấp nhận phương án kia nữa. Cả hai vợ chồng tôi sẽ cùng ra Hà Nội, xem các ông ấy làm gì được thì làm, nếu các ông định thủ tiêu tôi thì chính tôi sẽ tố cáo họ. Đến khoảng 5h chiều, vợ tôi tới khách sạn tìm tôi và nói là Trọng bảo hãy cứ y phương án cũ đi, Trọng đã dàn dựng kịch bản và đã nói với ông Dũng rồi. Mình không sợ gì cả nhưng cẩn thận vẫn hơn, lỡ ông Hải có manh động gì chăng. Lúc này thì chính vợ tôi lại thuyết phục tôi là hãy tạm chia xa nhau một thời gian, rồi Trọng và cô ấy sẽ tìm cách đưa tôi đi. Tôi cảm thấy mỏi mệt trong lòng và xem ra không còn cách nào khác - tôi không còn có thể quay lại sống một cuộc đời bình thường nữa được nữa rồi. Tôi nói với vợ, "Thôi em cứ đi đi, em và con sang bên ấy được sung sướng là anh mãn nguyện lắm rồi. Anh ở bên này có chết cũng được." Vợ tôi nói, "Ai bảo anh ngày xưa lấy em làm chi cho khổ. Em đã làm anh khổ quá nhiều rồi. Anh hãy yên tâm, em sẽ tìm cách đón anh đi. Cứ để cho em đi anh nhé, hãy tin ở em." Bình thường xa nhau một ngày là vợ tôi đã không chịu nổi, không hiểu sao lần này cô ấy lại tỏ ra mạnh mẽ đến thế. Tôi tiễn vợ một đoạn để tìm xe ôm. Khoác vai em đi mà nghe em nói, "Được anh ôm thế này là em quên hết mọi sự trên đời, không còn cần gì nữa cả," lòng tôi xốn xang bùi ngùi khôn tả.
Tối hôm đó, 8/11, vợ con tôi lên xe ra Hà Nội và những gì sau đó diễn ra theo đúng kịch bản mà chúng tôi đã dàn dựng. Vợ tôi bịa chuyện rằng tôi đã chửi bới và đánh đập cô ấy thế nào, rằng tôi đã bỏ đi và cô ấy không cần quan tâm đến tôi nữa, sống chết gì cũng mặc. Các ông kia nghe có vẻ tin và động viên vợ tôi. Ông Hải nói, "Vợ chồng không còn tin nhau nữa thì sống với nhau làm gì, cứ ở đây với bố rồi nếu thích thì bố sẽ cho con sang Paris sống với Thuỷ." Riêng ông Dũng thì tỏ vẻ rất lo lắng. Ra đến Hà Nội, các ông ngay lập tức cho hai vệ sỹ bám chặt vợ tôi, tiếng là bảo vệ nhưng kỳ thực là để giám sát vợ tôi. Trọng và Thuỷ cũng bị các ông này giám sát chặt. Trọng giả vờ hùa theo các ông kia, họ cũng muốn lôi kéo Trọng ngả về phía mình. Các ông nói nếu Trọng đứng về phía các ông thì số tiền (2 tỷ USD) đó Trọng muốn lấy bao nhiêu cũng được, rồi có ý sẽ tác thành vợ tôi với Trọng, còn ngôi nhà ở Paris sẽ cho hai mẹ con Thuỷ...
Để liên lạc với tôi, Trọng mua cho vợ tôi một sim điện thoại riêng và một máy điện thoại nhỏ xíu có thể giấu được trong khe ngực. Hai tên vệ sỹ lúc nào cũng cứ kè kè bên vợ tôi nên chúng tôi liên lạc với nhau rất khó. Mấy hôm trước đó ở Đông Hà vợ tôi bị sẩy thai nên sức khoẻ sút kém.[10] Ra Hà Nôi, vợ tôi phải vào bệnh viện hút thai lưu trong bụng ra. Rồi một hôm cô ấy bị ngất xỉu phải đưa vào viện cấp cứu. Bệnh viện chụp điện não đồ và phát hiện vợ tôi bị chảy máu não và đã ở tình trạng rất nguy hiểm, xác suất mổ thành công chỉ 50%, bắt buộc phải mổ ngay bởi để càng lâu sẽ càng nguy hiểm. Thế nhưng vợ tôi nhất quyết không chịu mổ mà đòi phải sang Paris ngay. (Sau này tôi mới biết là cô ấy đau đầu đã lâu nhưng không cho tôi biết vì sợ tôi lo lắng. Thời gian ở khách sạn Sao Mai do đau đầu quá vợ tôi đã đi chụp điện não đồ và được bác sỹ ở đây cho biết là tình trạng này thì để thế cũng chết mà mổ cũng chết. Hèn gì hồi đó có lần cô ấy nói, “Em sắp chết rồi, nếu em chết thì anh cố gắng nuôi con nhé.” Lần ấy tôi đã mắng vợ là đừng có nói nhảm.) Khi ra Hà Nội vợ tôi vẫn không chịu mổ là vì quá lo lắng cho tôi, biết tôi ở Đông Hà không có tiền cũng như đang bị các ông kia truy lùng nên muốn sang Paris ngay để sớm đón tôi sang.
Khi vợ tôi ra Hà Nội thì các ông kia cũng bắt đầu truy lùng tôi. Không hiểu bằng cách nào mà họ biết được tôi đã gửi tin cho em trai tôi - tôi đoán là do nó không tin vào câu chuyện cũng như không nghe lời tôi (mặc dù tôi đã nói hết lời với nó và lấy chính sinh mạng của vợ chồng tôi cùng con gái ra để đảm bảo) nên mới kể ra một số tình tiết tại nhà mẹ tôi và bọn họ đã ghi âm được. Quý vị hãy đọc những dòng trích sau đây từ một số email mà em tôi gửi cho tôi để thấy được thái độ của nó, tôi xin miễn bình luận: "Anh sớm ra Hà Nội làm lại cuộc đời đi anh ạ. Ai đời 1 kỹ sư kinh tế, dịch thuật quyển nọ quyển kia mà lại đi trông thuê cửa hàng intennet, con cái sinh ra không có nổi hộp sữa cho nó uống. Tại sao anh phải thế chứ? Con anh lớn lên rồi sẽ như thế nào? Chẳng lẽ lại đi bán nước mía với mẹ hay là đi trông cửa hàng với bố? Điều gì làm anh nên nông nỗi này?"; "Bố Dũng vừa đi công tác về đấy. Sao chị Phương Anh không ra HN đón hả anh? Sao anh không gọi cho bố nhờ bố kiếm cho cái chân bộ trưởng, thứ trưởng gì đó mà làm, con rể mà? Cần gì phải ngồi trông quán internet."
Trọng nói với vợ tôi, ông Mạnh gọi điện cho Trọng và bảo "nếu thằng Hùng mà đi tố cáo thì do không có bằng chứng gì nên không đáng sợ nhưng chắc chắn vẫn sẽ ảnh hưởng đến uy tín [của họ], ngoài ra tình báo trong và ngoài nước sẽ càng có thêm cơ sở củng cố nghi vấn về hành vi buôn bán vũ khí [của ông Mạnh và ông Hải]. Vì thế ta sẽ cho người truy tìm thằng Hùng đồng thời giám sát cả nhà nó, nếu nó và gia đình mà tỏ ra manh động, có ý tố cáo thì ta sẽ 'xử' cả nhà nó luôn." Tôi biết ông Mạnh mà còn nói thế thì ông Hải nếu tìm được tôi chắc sẽ chẳng tha cho tôi, hơn nữa lúc này ông Mạnh và ông Hải tỏ ra "tâm đầu ý hợp" lắm, còn ông Dũng thì buộc phải nghe theo vì trót đã cùng hội cùng thuyền với hai ông kia.[11]
Sáng thứ Hai, 12/11, tôi bỗng thấy lòng dạ bất an, linh tính mách bảo dường như có điều gì chẳng lành. Tôi quyết định lặng lẽ rời khỏi khách sạn Nam Đông, đến chợ Đồng Hà gặp thím của vợ tôi đang bán hàng ở đó mượn được 50.000VNĐ (lúc này trong túi tôi chỉ còn hơn 20.000VNĐ, mấy lần Trọng và vợ tôi tìm cách gửi tiền vào cho tôi mà chưa được vì bị giám sát quá chặt). Tôi định vào thẳng Sài Gòn luôn nhưng không đủ tiền nên bắt xe vào Đà Nẵng. Vào đến Đà Nẵng lúc gần 4h chiều. Cả thành phố trời mưa như trút nước, trong túi tôi chỉ còn đúng 21.000VNĐ. Tôi có hai người bạn học phổ thông làm ở Trung tâm Điều độ Đà Nẵng của Đường sắt Việt Nam, tên là Nguyễn Xuân Tình và Trần Đình Dần, mà lần trước tôi đã ghé vào chơi. Tôi gọi điện cho Tình thì chỉ gặp vợ nó và được báo là nhà đang chìm trong nước. Không hỏi được gì thêm, gọi lại lần nữa để hỏi số điện thoại của Dần thì bị tắt máy. Tôi liền gọi điện vào cho bạn tôi ở Sài Gòn là Bùi Quang Hùng, làm ở Công ty CTGT 499, thuộc Cienco 4, báo là sẽ bắt xe vào và dặn nó đón tôi rồi trả tiền xe cho tôi. Hùng đồng ý như thế nhưng đến khi định bắt ô tô vào Sài Gòn thì được biết mưa lũ khiến giao thông tạm thời bị chia cắt, chưa biết bao giờ mới thông đường. Tôi bèn gọi điện cho một người bạn học phổ thông khác là Nguyễn Vĩnh Hà, đang ở Biên Hoà và làm cho Công ty Thức ăn Gia súc CP Việt Nam. Hà sau đó gọi cho một người bạn của mình đang làm ở Quảng Ngãi, anh này lại có bạn đang công tác ở Đà Nẵng và cuối cùng anh bạn của bạn Hà đội mưa đem đến cho tôi 500.000VNĐ. Tôi đi ăn tối và thuê một phòng trọ cạnh bến xe để nghỉ, dự định là ngày hôm sau thông đường sẽ vào Sài Gòn luôn. Thế nhưng hôm sau đường giao thông Bắc - Nam vẫn bị chia cắt ở phía Nam thành phố Đà Nẵng. (Khi tôi đã rời khỏi khách sạn Nam Đông, một hôm đột nhiên ông Dũng hỏi vợ tôi, “Hùng đang ở khách sạn Nam Đông phải không con?” Vợ tôi chột dạ nhưng rất may là biết tôi đã rời khỏi khách sạn rồi nên mới yên tâm.)
Chiều thứ Ba, 13/11, tôi đi xe ôm đến Trung tâm Điều độ Đường sắt Đà Nẵng, hỏi điện thoại của Dần rồi đến nhà nó. Tôi kể qua sự tình cho Dần biết. Nó bố trí cho tôi ở một phòng trong Nhà Lưu trú Đường sắt trên đường Trần Cao Vân. Vợ tôi gọi điện cho tôi biết là 3h chiều thứ Tư, 14/11, cô ấy cùng với con và mẹ con Thuỷ sẽ bay sang Paris. Mãi đến 5h chiều ngày hôm sau, vợ tôi mới gọi điện được cho tôi và báo là máy bay bay vào Sài Gòn rồi hoãn do thời tiết, dự kiến 9h sáng mai sẽ bay. Đến 3h chiều ngày 15/11, vợ tôi gọi điện báo cho tôi là tối hôm qua cô ấy bị băng huyết, bị ngất xỉu phải đưa vào viện cấp cứu, truyền máu và vẫn đang nằm trong bệnh viện. Cô ấy vẫn còn yếu nhưng cho biết là bác sỹ nói nếu đủ sức khoẻ thì sẽ cho bay luôn chuyến bay 5h chiều hôm đó. Vợ tôi còn nói là tối hôm trước (14/11) ông Mạnh mặc dù đang ở thăm Hàn Quốc song vẫn bí mật bay về Sài Gòn để kiểm tra tình hình, đồng thời nhận xét thêm "đôi mắt ông ấy giờ trông ghê lắm." Kể từ thời điểm đó cho đến tận chiều tối ngày thứ Bảy, 17/11, tôi bặt tin vợ. Lòng tôi cứ như lửa đốt, vừa lo lắng cho sức khoẻ của vợ vừa không hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tôi đã định là nếu không nhận được tin tức gì của cô ấy thì ngày 20/11 tôi sẽ tung thư tố cáo lên mạng.
Trưa ngày 17/11 tôi vào mạng, kiểm tra cái nick Yahoo Messenger mà tôi đưa cho vợ tôi trước lúc chia tay để bí mật liên lạc song vẫn không thấy gì. Buổi tối đi ăn cơm về, như có điều gi xui khiến tôi lại bước vào hiệu Internet mặc dù đã đi qua (trước đấy tôi định ngày mai mới vào mạng). Đăng nhập vào cái nick Yahoo Messenger bí mật trên, tôi mừng như chết sống lại khi nhận được tin của vợ. Thì ra, chiều 15/11 sau khi gọi điện cho tôi cô ấy lại bị ngất xỉu lần nữa. Đến khi tỉnh lại, cô ấy giả vờ khóc lóc đòi đi Paris cho bằng được, rằng còn ở Việt Nam ngày nào thì cô ấy sẽ còn đau khổ ngày đó, phải đi thật xa để quên đi tất cả. Trước quyết tâm của vợ tôi, mọi người đành phải nhượng bộ. Đến đây thì xẩy ra một bước ngoặt, không hiểu thế nào mà ông Hải bắt cóc con Thuỷ đem biệt giam. (Điều này mãi về sau tôi mới được biết là khi vào Sài Gòn, đánh hơi thấy dường như có điều gì bất thường, ông Hải đã gí súng và dao vào đứa con gái mới 9 tháng tuổi của Thuỷ doạ giết nếu Thuỷ không chịu khai thật. Thuỷ sợ quá mới khai ra là Trọng nắm được nơi tôi đang ẩn náu. Thực ra còn một lý do quan trọng hơn nữa là ông Hải muốn bắt Trọng phải bàn giao toàn bộ chứng cứ cho ông ta.)
Thế là vợ con tôi phải đơn độc bay sang Paris, cùng với một người phụ nữ giúp việc 47 tuổi quê ở Nghệ An (bà này tên trên hộ chiếu là Nguyễn Thị An). Vợ tôi kể khi lên máy bay phải có người dìu đi. (Trọng làm cho vợ tôi hai hộ chiếu. Một hộ chiếu với tên thật là Lê Thị Phương Anh, còn hộ chiếu kia lấy tên giả là Trần Thị Nga, cả hai khai cùng ngày sinh là 11/11/1984. Vợ tôi không biết là đã nhập cảnh vào Pháp theo hộ chiếu nào.) Xuống sân bay ở Paris cô ấy lại bị ngất xỉu và phải cấp cứu ngay tại sân bay. Bạn của Trọng (tên là Trinh) đưa vợ tôi về nhà Trọng rồi mời bác sỹ đến khám và chuyền thuốc cho cô ấy. Khi vừa tỉnh lại là cô ấy mượn ngay máy tính xách tay của Trinh rồi nhắn tin cho tôi. Vợ tôi cho biết là cái sim điện thoại bị con tôi cho vào miệng cắn hỏng, bỏ vào máy không còn hiện lên số. Đồng thời lần ngất xỉu cuối cùng ở Sài Gòn cô ấy bị mất điện thoại, không hiểu bị ai lấy đi. Vì thế vợ tôi không nhớ số để gọi cho tôi (cũng may mà sau mỗi lần gọi hay nhắn tin cô ấy đều xoá hết dấu tích, vả lại cái sim đã bị hỏng trước khi rơi vào tay "ai đó" nên mọi chuyện đến lúc ấy chưa bị lộ hết, ngoại trừ sự cố Thuỷ để lộ việc Trọng biết được nơi tôi đang tá túc[12]). Trước tình hình sức khoẻ của vợ như thế, tôi khuyên cô ấy hay là cứ mổ trước đi, càng để lâu càng nguy hiểm. Song cô ấy cứ nhất mực không chịu, đòi phải chờ tôi sang mới mổ. Tôi biết vợ tôi nhớ thương và lo lắng cho tôi, muốn gặp tôi trước khi mổ kẻo lỡ có xẩy ra chuyện gì thì cũng được an ủi phần nào là đã chết trong vòng tay người mình yêu, đồng thời nếu có ra đi thì cũng yên tâm vì lúc đó bố con tôi sẽ không còn phải khổ cực nữa. Ngoài ra, tôi nghĩ cô ấy cũng muốn dùng cách đó hòng gây sức ép để Trọng sớm tìm mọi cách đưa tôi sang. Cô ấy vẫn mang theo hộ chiếu và thẻ ATM mang tên tôi, định sẽ gửi ngay về cho tôi sau khi đến Paris để tôi làm thủ tục bay sang luôn. Tuy nhiên, phần vì khi cô ấy mới sang sức khoẻ còn yếu, phần vì theo tôi nghĩ là ba ông kia có thể đã ra tối hậu thư cho Trọng là nếu phát hiện tôi rời khỏi Việt Nam thì bọn họ sẽ ra tay với con Trọng, nên đến mấy hôm mà cô ấy vẫn chưa gửi hộ chiếu về cho tôi được, vì nếu gửi thì chắc chắn là phải nhờ bạn Trọng, chứ vợ tôi làm gì biết một chữ tiếng Pháp, tiếng Anh nào.
Đến ngày thứ Tư, 21/11, sức khoẻ vợ tôi tương đối hồi phục, vợ tôi báo cho tôi biết là buổi chiều sẽ bay sang London, về ngôi nhà mà Trọng đã mua cho vợ chồng tôi, đồng thời ngày hôm sau, 22/11, một người bạn của Trọng tên là Hùng sẽ cầm hộ chiếu và thẻ tín dụng bay về Việt Nam đưa cho tôi. Vợ tôi cùng con gái, người giúp việc và Trinh (bạn Trọng) xuống sân bay ở London lúc khoảng 8h15 tối giờ địa phương rồi về nhà (ngôi nhà đứng tên tôi). Đến ngày thứ Sáu, 23/11, vợ tôi báo cho tôi biết là Hùng bạn Trọng đã về tới Việt Nam và kế hoạch là khoảng 5h chiều thứ Hai, 26/11, sẽ có người gặp tôi ở sân bay Tân Sơn Nhất, đưa hộ chiếu, visa và vé máy bay để tôi bay sang London luôn. Vợ tôi cũng nói tôi mua một cái sim điện thoại mới, nhắn số cho cô ấy để cô ấy nhắn cho Trọng rồi Trọng sẽ liên lạc với tôi. Sáng hôm sau, 24/11, tôi và Trọng liên lạc với nhau lần đầu tiên qua tin nhắn điện thoại. Trọng hỏi tôi, “Sau bao nhiêu chuyện xẩy ra mà anh vẫn tin là có các ông kia trên đời thật à? Anh không sợ tôi sẽ lại lừa anh thêm một lần nữa à?” Trọng thú nhận là rất yêu vợ tôi, rằng “cô ấy là một người thật thà, đáng thương, luôn vì mọi người, một lòng chung thuỷ với chồng, đồng tiền không làm cho cô ấy loá mắt, trên đời này cô ấy chỉ cần tình yêu của anh thôi.” "Cô ấy đã đau đớn lâu lắm rồi mà vẫn cố chịu đựng một mình, chỉ mong sớm được đi để chồng tin. Cô ấy đã bị bọn khốn nạn như chúng tôi lừa nhiều quá rồi nên càng yêu anh bao nhiêu càng sợ anh không tin, mong ra nước ngoài sớm để đưa chồng sang. Cô ấy mà có chuyện gì thì tôi ân hận vô cùng."
4h50 chiều ngày 24/11, tôi lên một chiếc xe chất lượng cao của Thuận Thảo từ Đà Nẵng vào Sài Gòn và 1h chiều ngày hôm sau thì tới nơi. Đến khoảng 4h20, tôi liên lạc được với vợ qua mạng. Chát được một lúc thì con gái tôi dậy và cô ấy phải vào ru con. Tôi đợi chừng 20 phút thì nhận được tin nhắn của Trọng là vợ tôi lại bị ngất xỉu và được đưa vào viện rồi. Tôi hết sức bàng hoàng, lo lắng. Trọng cho tôi biết là Thuỷ cũng vừa sang tới nơi và vào viện với vợ tôi, tình hình sức khoẻ của cô ấy đang ngày càng xấu đi. Trọng nói với tôi là hãy cố gắng thuyết phục cô ấy đồng ý mổ, kẻo càng để lâu càng nguy hiểm. Trong túi tôi lúc ấy chỉ còn đúng 105.000VNĐ, không hành lý, không giấy tờ tuỳ thân. Tôi không dám liên lạc với bạn vì nghĩ là cần phải bảo đảm an toàn tuyệt đối, đằng nào thì theo kế hoạch ngày mai cũng bay rồi. Mãi tới 8h tối tôi mới nhờ một tay xe ôm tìm thuê được một phòng trọ với giá 70.000VNĐ/đêm (các phòng trọ khác không nhận vì tôi không có giấy tờ tùy thân gì cả). Đến 9h30, Trọng nhắn với tôi là vợ tôi đã tỉnh và đang chờ liên lạc với tôi qua mạng. Tôi liền chạy ra tiệm Internet thì nhận được mấy dòng tin nhắn offline còn cô ấy đang phải ru con ngủ (con gái tôi bị nhiệt ở miệng nên hay quấy). Tôi ngồi đợi một lúc không được đành nhắn tin offline dặn dò, động viên vợ rồi về ngủ. Vợ tôi rất lo lắng vì thấy vẻ sợ sệt cùng thái độ ấp úng của Thuỷ. Trọng và Thuỷ vẫn giấu chuyện ông Hải đã bắt cóc và biệt giam con gái mình.
Sáng hôm sau tôi lên xe buýt và đến sân bay Tân Sơn Nhất vào khoảng 9h30 sáng, trong túi lúc ấy chỉ còn 20 ngàn đồng. Việc đầu tiên của tôi là tìm một hiệu Internet nằm trên đường Cửu Long để biết tin tức về vợ. Tôi ngồi một lúc thì vợ tôi cũng lên mạng (mặc dù lúc đó ở London mới khoảng 4h sáng). Vợ tôi vẫn còn đang ở trong bệnh viện cùng Thuỷ, sức khoẻ cô ấy đang rất yếu và có chiều hướng càng lúc càng xấu đi. Tôi thuyết phục vợ và cô ấy đồng ý mổ. Chát với tôi một lúc thì con tôi trở dậy và vợ tôi lại phải ru con ngủ rồi cô ấy cũng thiếp đi luôn.
Tôi đợi đến 3h chiều thì Trọng nhắn tin cho tôi báo là kế hoạch bị đổ bể. Trọng cho biết là mình bị giám sát chặt, còn đứa con gái thì đang bị biệt giam (lúc đó tôi vẫn chưa biết gì về điều này. Sau này vợ tôi còn cho tôi biết thêm là Hùng bạn Trọng đã bị người của ông Hải bắt, tuy nhiên rất may là lúc ấy hộ chiếu của tôi đã được chuyển cho người khác. Các sân bay quốc tế đều bị các ông ấy đặt trong vòng kiểm soát, nếu tôi xuất cảnh thì chắc chắn sẽ bị phát hiện.) Trọng cầu xin tôi là đừng nói sự thật với vợ tôi, mà chỉ nói là tôi có việc đột xuất rồi vài hôm tới sẽ bay thôi, vì sợ cô ấy quá lo lắng cho tôi mà bị sốc. Lúc đó tôi rất lo lắng cho vợ và cảm thấy không còn nhiều hy vọng từ Trọng. Tôi nhắn cho Trọng, "Bây giờ đến vợ con anh mà anh không lo nổi thì tôi còn biết hy vọng gì. Anh cứ đưa vợ con trở về Pháp đi, tôi sẽ có cách của tôi. Tôi không thể nào chịu nổi khi tính mạng cô ấy đang như ngọn đèn lay lắt trước gió còn mình thì đang sống dở chết dở thế này." Tôi dự định sẽ tung bức thư tố cáo lên mạng rồi chạy vào Lãnh sự quán Anh xin tỵ nạn chính trị rồi xin sang London gấp để gặp vợ. Trọng nhắn cho tôi, "Anh nói thế thì khác nào phụ lòng. Tôi cầu xin anh hiểu và thông cảm cho tôi. Con gái tôi đang ở trong tay chúng nó."[13] Tôi đề nghị với Trọng là hãy chơi bài ngửa luôn với mấy ông này. "Chơi trò này mà mình nhún một bước là nó lấn tới ngay." Tôi nói với Trọng là hãy cho tôi địa chỉ email của mấy ông kia để tôi gửi bức thư tố cáo, đặt họ vào thế đã rồi. "Khi đó thì họ không còn lựa chọn nào khác, đơn giản là vì họ mất nhiều hơn mình. Hơn nữa mình sẽ giành được thế chủ động." Lúc đầu Trọng đồng ý với tôi, bảo là ngày mai sẽ gửi địa chỉ email của các ông cho vợ tôi rồi vợ tôi sẽ nhắn cho tôi qua mạng. Tuy nhiên, hôm sau mặc dù đã gửi địa chỉ email của ông Mạnh và ông Hải cho vợ tôi nhưng Trọng vẫn dặn cô ấy là “khoan hãy gửi cho Hùng vì sợ Hùng nóng nảy làm liều.” Trọng nói với tôi là đã điều tra ra nơi ông Hải giam con và đang tìm cách để cứu con gái ra rồi sau đó sẽ chơi bài ngửa luôn với họ. Tôi hiểu là Trọng rất thương con gái và sợ ông Hải manh động, sẵn sàng ra tay với một đứa trẻ sơ sinh.
Trọng nhắn tin cho tôi, "Anh nhớ động viên Phương nhiều vào nhé. Những lời của anh không biết thế nào và Thuỷ nhắn với tôi là nhìn chị Phương chát với anh Hùng mà khuôn mặt chị rạng ngời hạnh phúc, thấy chị Phương như không đau ốm gì cả." "Phương đồng ý mổ là tốt quá rồi. Anh khoan nói gì với Phương, để sáng mai bác sỹ bên kia [Mỹ] đồng ý là chuyển cô ấy sang Mỹ luôn. Sau 8 tiếng cô ấy tỉnh lại là coi như thoát rồi, còn nếu không thì... tuỳ vào số mạng thôi. Anh hãy tin tôi, dù Phương có chuyện gì đi nữa tôi cũng sẽ ở bên anh. Cuộc đời còn lại tôi sẽ trả nợ cho anh. Tôi có tội với Phương, tôi ân hận và đau đớn vô cùng." Phương pháp giải phẫu chảy máu não của Mỹ là phương pháp tiên tiến nhất hiện nay, người ta sử dụng thiết bị rà quanh đầu để phát hiện nơi nào bị chảy máu thì dùng một ống hút siêu nhỏ chọc vào để hút máu ra, nghĩa là không phải mổ.
Khoảng 5h chiều 26/11, tôi liên lạc với bạn tôi là Bùi Quang Hùng. Hùng đón tôi ở bến xe Miền Tây rồi về Công ty Công trình Giao thông 499. Ngay sau đó tôi lên phòng làm việc của nó và liên lạc với vợ tôi để báo tình hình cho vợ tôi yên tâm, đừng lo lắng gì cho tôi, hãy tập trung tinh thần và sức lực để chuẩn bị mổ.
Sáng hôm sau, 27/11, Trọng nhắn với tôi là hãy ra mạng liên lạc với vợ và động viên cô ấy mổ. Tối hôm qua cô ấy nói chuyện qua mạng với Trọng lâu và cứ một mực đòi về Việt Nam để gặp tôi, không sợ trời đất gì cả. Khoảng 7h30, tôi ra hiệu Internet một lúc thì vợ tôi cũng lên mạng. Tôi lại phải nói để vợ tôi yên tâm và động viên cô ấy mổ. Tôi nói với vợ rằng "các ông ấy không dám làm gì anh đâu, họ biết là nếu đụng đến anh thì ngay lập tức anh sẽ tung thư tố cáo lên mạng. Anh đang ở chỗ bạn, đầy đủ mọi thứ, không thiếu gì cả. Em không phải lo gì đâu. Hãy cứ yên tâm mổ đi để sớm trở về với anh và con." Lần này thì tôi cho vợ quan sát tôi qua webcam để cô ấy vợi bớt nhớ nhung và thêm phần yên tâm. Chát được một lúc thì vợ tôi lại phải ru con ngủ. Tôi đợi đến 9h20 vẫn không thấy cô ấy online trở lại đành nhắn lại mấy câu offline dặn dò, động viên vợ rồi về. Đến 9h52 Trọng nhắn cho tôi, "Thủy mới nhắn cho tôi là chị Phương gặp được anh Hùng, nhìn thấy anh mà cứ ôm con nằm khóc, bảo nhớ anh nhiều... Tội nghiệp cho Phương quá, trái tim tôi ân hận vô cùng."
Đến trưa hôm ấy theo giờ Việt Nam, tức khoảng 6h sáng giờ London, vợ tôi được đưa lên máy bay chuyển sang một bệnh viện ở New York để mổ. Buổi chiều, tôi vào chùa cầu nguyện cho cô ấy. Khoảng gần 5 chiều giờ Việt Nam, tức 5h sáng giờ New York, vợ tôi xuống đến sân bay JFK và được chuyển tới bệnh viện New York. Sau đó cô ấy được đưa vào phòng chụp điện não đồ, kiểm tra sức khoẻ và truyền thêm máu để mổ. Trước khi lên bàn mổ, Thuỷ nối điện thoại cho tôi gặp vợ. Bao nhiêu ngày đằng đằng chờ mong, lo lắng, giờ mới nghe được giọng nói của nhau ngay trước lúc một người phải bước lên bàn mổ để giành giật sự sống với tử thần, cả hai chúng tôi đều không nén nổi xúc động và cùng oà khóc. Tôi động viên vợ, "Em hãy nắm chặt hai tay vào, mím môi lại, quyết tâm vượt qua để trở về với anh và con." Vợ tôi thỉnh cầu tôi hứa với cô ấy mấy điều trước khi lên bàn mổ. "Thứ nhất, anh phải nuôi con; thứ hai, anh phải cưới vợ, phải tìm được một người vợ nào tốt hơn em, em đã làm anh khổ nhiều rồi; thứ ba, anh không được đi tố cáo..." "Tất nhiên là anh sẽ nuôi con rồi, em biết anh yêu con đến thế nào rồi còn gì. Còn em bảo anh tìm một người vợ nào tốt hơn em thì trên đời này còn có ai tốt hơn em nữa đâu hả em. Em là người con gái tốt nhất trên thế gian này. Chính tình yêu của em đã tiếp cho anh sức mạnh để anh vượt qua tất cả. Bây giờ em hãy vì tình yêu đó, quyết tâm vượt qua thử thách này để trở về với anh..."
6h32 chiều giờ Việt Nam (6h32 sáng giờ New York), Thủy nhắn cho tôi, "Phòng mổ thông báo bắt đầu mổ rồi anh ạ. Chúng ta hãy cùng cầu nguyện anh nhé." Và sau đấy là những giây phút nặng nề trong lo âu và đợi chờ căng thẳng. Tôi hết cầu Trời lại khấn Phật mong cho vợ mình vượt qua được thử thách khắc nghiệt và đầy bất trắc này, còn Trọng thì vào một nhà thờ ở Hà Nội để bắt đầu cầu nguyện cho vợ tôi. 7h45 Thủy nhắn cho tôi, "Anh Hùng ơi chị Phương mổ thành công rồi, bây giờ chỉ còn mong chị tỉnh lại thôi. Sau 8 tiếng mà chị không tỉnh lại thì coi như chị ra đi mãi mãi anh ạ." Nhìn mấy chữ "ra đi mãi mãi" mà tôi thấy rụng rời chân tay. 8h13 tối, Thuỷ lại nhắn, "Anh Hùng à, chị Phương cầm chắc trong tay bức ảnh của anh và bé Mimi. Chị nắm chặt lắm anh à." Tôi nhắn lại với Thuỷ, "Anh vẫn tin chắc rằng chị sẽ trở về với anh mà." Thực ra đến lúc đó tôi vẫn thấy tự tin. Tôi chưa hề có linh cảm gì là vợ tôi sẽ rời xa tôi mãi mãi cả, đơn giản là tôi không thể nào tin nổi điều ấy, cho dù từ buổi trưa hôm đó tôi đã không nén nổi những giọt nước mắt khóc thương vợ. 11h37, Thủy nhắn, "Anh Hùng à, em đang ở bên chị Phương. Tay chị vẫn nắm lấy bức ảnh rất chặt như sợ ai cướp đi vậy. Chị nằm mà thấy tội nghiệp quá anh ạ." 11h44, "Nước mắt em cứ tuôn trào, em sợ quá. Bác sỹ nói chỉ cần bàn tay cử động là báo ngay mà sao mãi không thấy. Mấy tiếng rồi anh, em không còn nhìn được gì xung quanh cả anh ạ." Từ giây phút đó, tôi bắt đầu hoang mang thật sự. Và cũng từ đó tôi không còn thấy Thủy nhắn gì nữa. 1h30 (28/11), tôi mệt quá thiếp đi được một lúc đến 2h30 thì tỉnh dậy. Vội liếc sang điện thoại, không thấy tin nhắn nào cả. Người tôi bắt đầu ù đi. Tôi cứ đi đi lại lại ngoài hành lang và cầu Trời khấn Phật. Từ 3h trở đi tôi thấy mọi tia hy vọng dường như lịm tắt dần và đến 3h30 thì tôi đã ý thức được rằng không còn chút hy vọng nào nữa. Tôi gọi Hùng bạn tôi (vừa đánh bài xong đang chuẩn bị ngủ) và cho nó biết tình hình, đề nghị nó hãy ở bên tôi lúc này. Người tôi đau đớn tê dại, tôi thấy mình đang từ từ rơi xuống địa ngục. Đến 3h45 thì tôi hiểu rằng mọi thứ đã chấm hết (đã 8 tiếng kể từ khi ca mổ hoàn thành). Vợ tôi đã không còn trên đời này nữa, vợ tôi đã vĩnh viễn lìa xa tôi rồi. Đau đớn thay cho em, lúc này tôi đang ở cách xa em nửa vòng trái đất còn đứa con yêu quý vừa mới hơn 1 tuổi thì đang khóc mẹ ở London. Em ra đi mà cả hai người thân yêu nhất của mình đều không có ở bên em. Cuộc đời em đã phải nếm trải đủ mọi cay cực trên trần gian này rồi. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy hối hận vì đã gặp em. Bởi nếu không thì em đâu phải chịu bao nỗi đớn đau, tủi nhục để rồi vĩnh viễn ra đi một cách thương tâm như thế. Tôi gọi vào máy Trọng thì chỉ nghe mấy tiếng tò te. Gọi vào máy Thuỷ thì Thuỷ không nghe máy. Tôi không cầm nổi điện thoại nữa mà phải nhờ bạn tôi cầm hộ. Rụng rời, tê tái, điên dại nhưng tôi vẫn còn đủ sáng suốt để hiểu rằng tôi cần phải gặp em lần cuối trước khi vĩnh viễn lìa xa em, hơn nữa tôi đang còn đứa con thân yêu, giọt máu của vợ tôi để lại giờ này vẫn đang côi cút ở London mà không hề biết rằng người mẹ yêu quý của mình đã ra đi mãi mãi. Tôi bảo bạn tôi nhắn cho Thuỷ, "Em hãy báo với Trọng thu xếp đưa vợ anh về London và đưa anh sang ngay London. Anh sẽ sống nốt những ngày cuối cùng với vợ con anh ở London." "Em hãy yên tâm, anh sẽ không làm gì hại vợ chồng em và con em đâu. Anh đã hứa với vợ anh rồi." "Em nhắn cho Trọng bảo ba ông kia muốn giết anh thì cứ giết đi, anh không còn muốn sống nữa." Không hề thấy hồi âm gì từ phía Thuỷ cả... Bỗng nhiên đến 4h20 bạn tôi từ ngoài chạy vào đưa máy điện thoại cho tôi, trên đó hiện lên dòng chữ, "Anh Hùng ơi, chị Phương bắt đầu tỉnh lại rồi!" Tôi không dám tin vào mắt mình. Thuỷ cứ gửi dồn dập cùng cái tin đó nhiều lần. Người tôi vẫn chưa hết tê dại, choáng váng nhưng đã bắt đầu có cảm giác là sự sống đang trở lại với mình. Tôi bảo bạn tôi nhắn cho Thuỷ, "Có thật không em?" thì Thuỷ nhắn lại, "Em mà dám đùa với anh à." 4h35 Thuỷ lại nhắn, "Anh ơi chị Phương tỉnh rồi, lát nữa anh nghe tiếng chị nói." Một lúc sau, Thuỷ bấm máy cho tôi gặp vợ. Tôi chỉ nghe được mấy lời lúng búng yếu ớt chứ vẫn chưa nhận ra rõ ràng giọng của vợ. Thuỷ cho biết thêm là Trọng đã bị ngất xỉu trong nhà thờ và hiện đang được đưa đi cấp cứu.
Hôm sau, Thuỷ kể cho tôi diễn biến của ca mổ và đây mới là những gì thần kỳ nhất mà tình yêu có thể đem đến. Thuỷ cho biết là Trọng đã cho mời những bác sỹ giỏi nhất đến từ mấy nước, tất cả gồm mười chuyên gia đứng đầu thế giới trong lĩnh vực này, bao trọn gói mọi chi phí. Khi tôi tỏ ý khen Trọng là người tháo vát và chu toàn, và thành công của ca mổ có lẽ là nhờ nhiều vào khả năng chuyên môn của các bác sỹ này, thì Thuỷ nhắn lại, "Không anh ạ. Em nghĩ điều đó là nhờ tình yêu mà chị dành cho anh đấy. Vì em nghe anh Trinh nói là trường hợp của chị để lâu mà không điều trị thuốc thang gì cả. Nó lan ra, chảy máu não gần đến tai rồi. Khi mổ xong, bác sỹ ra em thấy họ lắc đầu rồi. Họ bảo không hy vọng gì cả, cứ đợi 8 tiếng mà chị không tỉnh là đưa chị về." "Lúc 3h30 chiều [tức 3h30 sáng giờ VN], chị mới đưa tay lên ngắm ảnh của anh và bé rồi đưa lên hôn mà nước mắt chị cứ chảy ra, ai cũng lắc đầu khóc theo chị. Em vội nhắn báo cho anh Trọng mà chưa dám báo cho anh. Lúc đó chị thở yếu dần. Mọi người bảo hãy để chị nằm yên và sẽ đưa chị về nhà." "Bác sỹ lúc đó đến tháo bình ôxy và máy trên người chị xuống. Bất chợt mọi người rùng mình khiếp sợ. Chị mở mắt ra và gọi: 'Anh ơi, em không đi đâu cả, em về với anh đây. Anh ơi, anh ơi! Thuỷ ơi, điện thoại đâu để chị gọi cho chồng chị.'" "Lúc đó em nghĩ chị ra đi mà không gặp được anh, giờ chị trở về để gặp và nói chuyện với anh. Chị nói xong là toàn thân chị không cử động được nữa mà tim chị lại đập trở lại bình thường. Bác sỹ liền tiêm thuốc và cho chị thở ôxy trở lại." "Lúc tháo ôxy ra chị đã ngưng thở rồi anh ạ. Bác sỹ đã lắc đầu là không còn hy vọng gì nữa. Họ đồng ý với nhau là đưa chị về nhà rồi." (Sau này vợ tôi cho tôi biết thêm là lúc ở London máu đã chảy ra tai và khi sang đến New York thì máu đã chảy ra mũi. Nghĩa là tình trạng của em đã hầu như vô phương cứu chữa, cơ thể đã bắt đầu bị liệt dần dần. Song kỳ diệu thay, cánh tay cầm ảnh bố con tôi thì lại vẫn còn cử động được. Khi mổ xong, có lúc máy theo dõi điện tâm đồ đã chỉ một vạch thẳng, tim đã ngừng đập và bác sỹ đã định kéo khăn trắng phủ lên mặt rồi. Thuỷ cứ ôm lấy người vợ tôi khóc lóc thảm thiết, không cho ai đụng vào, không cho tháo ôxy ra ngay, bảo là nhỡ chị Phương tỉnh lại thì sao.)
Thuỷ hỏi vết thương trên đầu vợ tôi có phải là do bị đập không. Tôi nói vợ tôi kể nguyên nhân vết thương là từ mẹ tôi. Khi nghe Thuỷ hỏi lại, vợ tôi đã nhờ Thuỷ nhắn cho tôi, “Anh yêu ơi, đừng có nói lung tung là em bị như thế, chỉ anh và em biết thôi nhé. Dù sao cũng là nhờ mẹ nên em mới có anh để yêu chứ.”
Tôi nghĩ rằng tình yêu mà vợ tôi dành cho tôi đã đi sâu vào tiềm thức, trở thành một phản xạ vô thức hay một thứ bản năng. Và chính bản năng tình yêu mãnh liệt ấy đã đánh thức em vào đúng cái khoảnh khắc mà tử thần đã đưa em đến cái ranh giới vô cùng mong manh giữa sự sống và cái chết. Lúc nào em cũng thương yêu và lo lắng cho tôi. Em chỉ sợ rằng khi không có em thì không còn ai chăm lo cho tôi cả. Tình yêu vô bờ bến đó cộng với nỗi đau tột cùng khi phải xa lìa chồng con của em đã thấu đến tận Trời Xanh và làm động lòng Trời Phật. Tình yêu của em đã đưa tôi, và cả Trọng nữa, trở về từ địa ngục. Tình yêu của em đã làm thay đổi số phận của nhiều người. Và biết đâu, tương lai của cả một dân tộc.

Sài Gòn - 12/2007
Lê Anh Hùng

Aucun commentaire: