Các "đại gia" DNNN đang nợ ngân hàng hơn 400 nghìn tỷ
(Dân trí) - Tính đến tháng 9/2011, dư nợ vay
ngân hàng của các doanh nghiệp nhà nước lên trên 415.000 tỷ đồng, chiếm
tới 16,9% tổng dư nợ tín dụng. PetroVietnam dẫn đầu 12 tập đoàn kinh tế
của nhà nước với khoản nợ lên tới 72.000 tỷ đồng.Bộ Tài chính vừa hoàn thiện
Đề án
“Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng
công ty nhà nước”. Nội dung đề án đề cập khá chi tiết về tình hình tài
chính, hiệu quả kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện
nay, cũng như phân tích những điểm tồn tại và là những vấn đề mà quá
trình tái cơ cấu phải xử lý.
Theo đánh giá từ đề án, tình hình tài chính tại nhiều tập đoàn, tổng
công ty chưa đảm bảo các yêu cầu về an toàn tài chính, tiềm tàng nhiều
nguy cơ rủi ro và đổ vỡ khi kinh doanh không hiệu quả. Khối doanh nghiệp
này chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của hệ thống các tổ chức
tín dụng.
Tính đến tháng 9/2011 dư nợ vay ngân hàng của các doanh nghiệp nhà
nước là 415.347 tỷ đồng, chiếm tới 16,9% tổng dư nợ tín dụng. Trong đó,
chỉ riêng 12 tập đoàn kinh tế của nhà nước dư nợ đã lên tới 218.738 tỷ
đồng, chiếm 8,76% tổng dư nợ toàn ngành ngân hàng và chiếm 52,66% dư nợ
cho vay doanh nghiệp nhà nước.
Trong đó, dẫn đầu là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) với
72.300 tỷ đồng; Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đứng thứ hai với 62.800
tỷ đồng; thứ ba là Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản (TKV) với
20.500 tỷ đồng; kế đến là Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy (Vinashin) với
19.600 tỷ đồng.
Ngoài ra, đề án cho biết có đến 30/85 tập đoàn và tổng công ty có tỷ
lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu cao hơn 3 lần, đặc biệt có 7 tập
đoàn, tổng công ty có tỷ lệ này trên 10 lần, như: Tổng công ty Xây dựng
Công nghiệp, Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 1, Tổng công ty
Xây dựng công trình giao thông 5, Tổng công ty Xây dựng công trình giao
thông 8, Tổng công ty Xăng dầu Quân đội, Tổng công ty Thành An và Tổng
công ty Phát triển đường cao tốc.
An Hạ
Tập đoàn Sông Đà xin vay tiền nhà nước trả nợ ngân hàng ngoại.
(Dân trí) - Bộ Xây dựng vừa có văn bản đề nghị
Bộ Tài chính xin ý kiến Thủ tướng về việc cho Tập đoàn Sông Đà vay từ
Quỹ tích lũy trả nợ nước ngoài để hỗ trợ trả nợ Ngân hàng ngoại trong dự
án Xi măng Hạ Long của công ty con.
Theo
đó, Công ty CP Xi măng Hạ Long (Tập đoàn Sông Đà chiếm 59% cổ phần)
liên tục lỗ trong nhiều năm. Dư nợ vay vốn để đầu tư, sản xuất và trả nợ
vay của Công ty này là rất lớn (trung bình là 7.000 tỷ đồng/năm), lãi
suất vay vốn ngân hàng tăng cao (từ 20 - 27%/năm).
Theo báo cáo, tập đoàn Sông Đà có công nợ phải thu lên tới 10.000 tỷ đồng
Trong khi giá bán tăng không đủ bù chi phí dẫn đến kết quả kinh doanh năm 2011 lỗ: 581,268 tỷ đồng; năm 2012 lỗ kế hoạch: 495,976 tỷ đồng.
Kế
hoạch trả nợ trong năm 2012 của Xi măng Hạ Long do xây dựng nhà máy xi
măng thì công ty này phải trả gần 500 tỷ đồng của các đối tác tài chính
ngước ngoài là Ngân hàng Natixis (CH Pháp) và Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu
(NIB).
Theo
báo cáo của Tập đoàn Sông Đà, tổng số tiền Tập đoàn đã hỗ trợ trả nợ
thay cho Công ty cổ phần Xi măng Hạ Long tính đến ngày 31/3 vừa qua là
hơn 1.200 tỷ đồng, bao gồm: trả nợ Ngân hàng Natixis gần 41 triệu euro
(tương đương với 1.157 tỷ đồng); trả nợ cho Ngân hàng NIB số tiền gần
1,9 triệu euro (tương đương 53,1 tỷ đồng).
Tuy
nhiên, hiện nay Sông Đà đang kêu khó vì giá trị khối lượng dở dang và
công nợ phải thu của Tập đoàn lên đến hơn 10.000 tỷ đồng do các chủ đầu
tư không có vốn để thanh toán, Tập đoàn đang phải cân đối để thanh toán
các khoản nợ vay đến hạn trả nên không thể tiếp tục hỗ trợ Công ty cổ
phần Xi măng Hạ Long trong việc trả nợ khoản vay của các Ngân hàng nước
ngoài năm 2012, 2013.
Thông Chí
World Bank cảnh báo nợ của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam.
(Dân trí) - Theo WB, sự không chắc chắn lớn nhất
đối với bền vững nợ xuất phát từ các DNNN - không được thống kê vào nợ
Chính phủ hay nợ được Chính phủ bảo lãnh - làm hạn chế khả năng của
Chính phủ trong quản lý các rủi ro liên quan.
Những
khoản nợ của các DNNN không được liệt kê trong các con số thống kê của
nợ Chính phủ hay nợ được Chính phủ bảo lãnh. Do đó, không có một ước
tính đáng tin cậy nào về những khoản nợ này.
Các chính sách thắt chặt làm nản lòng giới đầu tư và chi tiêu cá nhân
Theo đánh giá tại bản báo cáo cập nhật của Ngân hàng Thế giới (WB)
về tình hình kinh tế Việt Nam được công bố sáng nay (23/5), mức tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2012 sẽ rơi vào khoảng 5,7%
trước khi tăng trưởng 6,3% vào năm 2013. Trong khi đó, Chính phủ sẽ đạt
được mục tiêu kiềm lạm phát dưới 10%.
Trên thực tế, tăng trưởng GDP đã giảm từ 6,8% năm 2010 xuống còn
5,9% trong năm 2011 và tiếp tục tụt dốc xuống 4% trong quý I/2012. Nhu
cầu trong nước chững lại ảnh hưởng đến ngành xây dựng, dịch vụ và các
ngành tiện ích khác.
Trước đó, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng đánh giá kinh tế Việt Nam
2012 tăng trưởng dưới 6%. Trong khi đó, bộ phận phân tích và tư vấn kinh
tế (EIU) của tạp chí Nhà Kinh tế (Economist) dự báo, GDP Việt Nam 2012
chỉ tăng 5,6%, lạm phát ở mức13,8%. Mục tiêu của Chính phủ Việt Nam
trong 2012 là giữ tăng trưởng GDP từ 6 - 6,5%, lạm phát dưới 10%.
WB cho rằng, việc thắt chặt các chính sách trong nước hồi năm ngoái
đã làm nản lòng giới đầu tư, đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và
bất động sản, cũng như với tiêu dùng cá nhân. Tuy nhiên, tác động tích
cực của các biện pháp này, cộng với hiện tượng giá lương thực giảm, lạm
phát đã giảm xuống còn 10,5% trong tháng 4/2012 từ mức đỉnh điểm 23% hồi
tháng 8/2011 (lạm phát tính theo năm).
Áp lực lên tỷ giá tiếp tục giảm trong quý I, khi niềm tin vào tiền
đồng đã dần được cải thiện. Theo đó, tỷ giá hối đoái không chính thức
vẫn ở tiệm cận dưới của chênh lệch +/-1% xung quanh tỷ giá chính thức kể
từ khi tiền đồng mất giá 8,5% so USD hồi tháng 2/2011. Nguồn cung tăng
của USD trên thị trường cũng đã cho phép NHNN bổ sung dự trữ ngoại hối
trong những tháng đầu năm 2012, được báo cáo lên đến gần 7,5 tuần nhập
khẩu.
Tạo lòng tin bằng minh bạch và trách nhiệm công bố thông tin
Thâm hụt ngân sách năm 2012 được dự báo chiếm 6% GDP, so với con số
ước tính 6,5% năm 2011. Nợ công được kỳ vọng vẫn ở mức ổn định, và
Chính phủ sẽ tiếp tục chính sách thắt chặt tài khóa. Theo Phân tích về
tính ổn định nợ của quốc gia thu nhập thấp của WB, Việt Nam thuộc nhóm
chịu ít rủi ro nợ công.
Đối tác đa phương lớn nhất của Việt Nam cũng cảnh báo rằng, sự
không chắc chắn lớn nhất đối với bền vững nợ lại xuất phát từ các doanh
nghiệp nhà nước - tuy nhiên, những khoản nợ của các doanh nghiệp này
không được liệt kê trong các con số thống kê của nợ Chính phủ hay nợ
được Chính phủ bảo lãnh. Do đó, không có một ước tính đáng tin cậy nào
về những khoản nợ này. Chính điều đó làm hạn chế khả năng của Chính phủ
trong quản lý các rủi ro liên quan - theo WB.
Tổ chức này cho rằng, tính minh bạch và trách nhiệm công bố thông
tin rất quan trọng để xây dựng lòng tin giữa các thành viên tham gia thị
trường.
Ngoài ra, theo WB, vấn đề của Việt Nam trong những năm tới tiếp tục
là vấn đề trong ngành ngân hàng. Ngoài ra, thách thức ngắn hạn về chính
sách với Việt Nam là làm thế nào để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và
khôi phục niềm tin nhà đầu tư.
Các biện pháp của Chính phủ đã dẫn đến sự suy giảm mạnh trong tăng
trưởng tín dụng, từ 32,4% vào cuối năm 2010 xuống đến 14,3% vào cuối năm
ngoái. Tuy nhiên, chất lượng tài sản đã xuống cấp một phần do tăng
trưởng tín dụng nhanh chóng vào thời điểm trước 2011 và suy giảm trong
lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
Phần vay chính thức không hoạt động hiệu quả (nợ xấu) tăng từ 2,2%
trên tổng giá trị tài sản vào cuối năm 2010 lên 3,6% hồi tháng 3 năm
nay, và thậm chí có khả năng còn cao hơn nếu được đo bằng hệ thống các
tiêu chuẩn quốc tế. Chính sách thắt chặt tiền tệ cũng góp thêm căng
thẳng vào vấn đề thanh khoản tại một số ngân hàng nhỏ.
Hiện Chính phủ đang tiến hành tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế. Và
theo nhận định của WB, ngay cả khi chỉ thực hiện một phần của các cải
cách này, Việt Nam cũng cần phải trở lại với một môi trường kinh tế vĩ
mô bền vững hơn, đồng thời đặt nền móng cho hiệu quả và năng suất cao
hơn để thúc đẩy tăng trưởng trong trung và dài hạn.
Bích Diệp