30-4 : Những Trận Đánh Cuối Cùng – Trọng Đạt
Tháng Tư 28, 2012
Từ trái sang: Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, các tướng Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai và Phạm Văn Phú. (link tiểu sử)
Bài đọc suy gẫm: 30-4
: Những Trận Đánh Cuối Cùng, Sài Gòn Thất Thủ, tác giả Trọng Đạt tổng
kết một số diễn biến và những trận đánh của những ngày cuối. Hình ảnh
chỉ có tính cách minh họa.
Nhân dịp tháng tư về với nhiều hoài niệm. Blog 16 xin mời quý bạn đọc nghe audio link: “32 Năm Người Mỹ và Tôi”
do chính tác giả Trương Ngọc Bảo Xuân thực hiện, chứa đựng nhiều biến
chuyển chính trị cho cả một thế hệ, một giai đoạn tang thương của đất
nước liên quan đến người Việt và người Hoa Kỳ.
…Ngày 4-4-1975 Phan Rang và Phan Thiết được sáp nhập vào Quân khu 3.
Tại Phan Rang lực lượng ta gồm 2 trung đoàn bộ binh 4 và 5 thuộc sư đoàn
2, 1 lữ đoàn Dù, 1 liên đoàn Biệt Động quân, 4 tiểu đoàn Địa phương
quân, sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm, một giang pháo
hạm, một hải vận hạm… Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh tiền phương
Quân đoàn 3 đóng tại Tháp Chàm.
Phan Rang phố xá vắng tanh, dân di tản về Phan Thiết rất nhiều, ngày
14-4 Việt Cộng tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang tại phi trường, một
tiểu đoàn Dù đụng độ Việt Cộng, địch bỏ xác cả 100 tên. Ngày 15-4 Phó
Thủ tướng đặc trách Quốc phòng Trần văn Đôn và Tướng Toàn thị sát mặt
trận. Khi phái đoàn vừa về thì Việt Cộng tấn công mạnh, địch tăng cường
sư đoàn 325 và nhiều chiến xa. Quân đội VNCH phản công dữ dội nhưng
không thể chống lại lực lượng quá đông của địch phải rút lui, trung đoàn
4 và 5 tan rã.
Khuya ngày 16-4 chỉ có 200 người thoát vòng vây, các sĩ quan thuộc Bộ
tư lệnh tiền phương và và sư đoàn 6 không quân bị bắt hết, các đơn vị
ta tại đây coi như tan rã, Việt Cộng chiếm được 40 máy bay tại Phan
Rang.
Hai hôm sau ngày 18-4 Phan Thiết cũng bị lọt vào tay Cộng quân
Quân đoàn 4 BV gồm các đơn vị đã chiếm QK 2 theo Quốc lộ 1, Quốc lộ
20 tiến về Sài Gòn, gần giao điểm của hai Quốc lộ này là Xuân Lộc thuộc
tỉnh Long khánh cách Sài Gòn 60 cây số, Xuân lộc giữ vị trí quan trọng
bảo vệ phi trường Biên Hoà.
Phạm vi trách nhiệm của sư đoàn 18 là Long Khánh, phụ trách an ninh
phía Bắc căn cứ Long Bình, Quốc lộ 15 và căn cứ Không quân Biên Hoà.
CSBV huy động 4 sư đoàn thuộc Quân đoàn 4 đã bị sứt mẻ: sư đoàn 6 gồm
2300 người, sư đoàn 7 có 4100, sư đoàn 341, sư đoàn 1 gồm 3400 người sư
đoàn 325 gồm5000 người, trung đoàn biệt lập 95B gồm 1200 người.
BV khi tấn công Xuân Lộc nhằm các mục tiêu.
-Tấn công tuyến phòng thủ then chốt phía đông như Xuân Lộc, Bà Rịa, Vũng Tầu.
- Kéo lực lượng Việt nam Cộng Hoà ra ngoài để tiêu diệt, mở cửa lớn để vào Sài Gòn.
-Thu hút lực lượng Việt Nam Cộng Hoà vào phía đông để đưa các lực
lượng khác tới bắc và tây bắc Sài Gòn. Giữa tháng 3 sư đoàn 18 bắt được
một số tù binh còn nhỏ tuổi, mới được đưa từ ngoài Bắc vào, lấy cung tù
binh biết trước ý dịnh củaVC, sư đoàn 18 chuẩn bị sẵn sàng chờ địch. Bộ
binh và pháo binh được đưa lên giữ các cao điểm quan trọng, gia đình
binh sĩ được đưa về hậu cứ Biên Hoà.
Phù hiệu Sư Đoàn 18 Bộ Binh và
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, vị Tư Lệnh cuối cùng của sư doàn 18 BB. Ông
cũng là vị Tư Lệnh chiến trường của mặt trận Xuân Lộc. Trong những ngày
tháng Tư, chỉ huy Sư Đoàn 18 và các Lực Lượng bạn đánh một trận đánh để
đời tại Long Khánh, Xuân Lộc. Dù bị lép vế với số quân áp đảo của quân chủ lực cộng sản, chiến thuật biển người, nhưng các chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tham chiến đã anh dũng can trường, bẽ gãy mọi mưu toan tấn công của địch. Xuân Lộc vẫn oai hùng đứng vững hiên ngang cho tới khi thay đổi chiến thuật.
Sáng 9-4 Việt Cộng pháo Xuân Lộc 4000 quả, cho hai tiểu đoàn đặc công
đột nhập thị xã bị đẩy lui bỏ lại hằng trăm xác chết, dân bị trúng đạn
nhiều người chết, địch pháo phi trường Biên Hoà. Ngày 11-4 tiểu đoàn
2/52 VNCH băng rừng tăng cường Xuân Lộc đã phục kích tiêu diệt một đoàn
xe 30 chiếc , gần 100 tên VC bỏ xác. Quân đội VNCH kháng cự mãnh liệt
tại Xuân Lộc, biệt đội kỹ thuật của ta bắt được điện báo VC và biết vị
trí đóng quân của chúng để gọi máy bay oanh kích khiến thiệt hại của
địch cao. Xuân Lộc tuy không phải là mục tiêu cuối cùng nhưng vẫn là mục
tiêu chính, VC đưa thêm quân vào chiến trường, sáng ngày 16-4 Tướng
Toàn cho lệnh thả 2 trái bom CBU (Daisy Cutter) tại Bắc Gầu Giây tiêu
diệt nhiều đơn vị bộ binh, thiết giáp, pháo binh địch. Bị Việt Cộng tố
cáo trên dư luận quốc tế nên Mỹ không dám cung cấp ngòi nổ, sự thực họ
chỉ thử nghiệm vũ khí cũng như ngăn chận đà tiến quá nhanh của VC để dễ
di tản khỏi VN.
Ngày 20-4 Tướng Toàn bay trực thăng vào Xuân Lộc gặp Tướng Đảo bàn kế
hoạch lui binh, sư đoàn 18 rút lui vào lúc đêm vừa đánh vừa rút, giữ
trật tự bình tĩnh, tối 20 trung đoàn 48 về đến Long Giao đặt pháo binh
yểm trợ tổng quát cho cuộc lui binh, sau đó truyền tin, công binh, pháo
binh, quân y… rút theo.
Sư đoàn 18 thiệt hại 30% quân số, Địa phương quân nghĩa quân bị thiệt
hại nặng, VC chết 5000, 37 xe tăng bị bắn cháy. Sư đoàn 18 để 2500 quân
ở ngoài và 2500 quân ở trong thị xã, VC pháo 2000 quả, đến tối sư đoàn 6
VC phải gom quân rút lui. Trân đánh kéo dài mấy ngày, VC đưa thêm vào
mặt trận một sư đoàn nữa ngày 10 để tấn công thị xã nhưng vẫn bị đẩy
lui. Địch pháo 2000 quả vào tuyến phòng thủ nhưng sư đoàn 18 vẫn đứng
vững. Trước đấy sư đoàn này được coi như một sư đoàn loại dở, tệ thế
nhưng đã đẩy lui nhiều đợt tấn công dữ dội của đối phương. Trong mấy
ngày tấn công VC đã pháo 8000 quả vào Xuân Lộc nhưng sư đoàn 18 vẫn bám
sát trận địa chiến đấu rất dũng mãnh không lùi một bước.
Sư đoàn 18 lui binh tốt đẹp cho thấy khuyết điểm của Quân đoàn 1 và 2.
- Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh, không kiểm soát đôn đốc từ cấp chỉ huy.
- Gia đình binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn hàng ngũ, sư đoàn
18 đã có kế hoạch cho di tản gia đình binh sĩ về Biên Hoà trước nên
không sẩy ra hỗn loạn. Ngày 18-4 Ủy ban Quốc phòng Thượng viện Mỹ bác bỏ
đề nghị viện trợ khẩn cấp cho VNCH của Tổng thống Ford.
Từ ngày 8-4 -1975 Lê Đức Thọ, người thực sự cầm đầu Bắc Việt chủ toạ
phiên họp tại Lộc Ninh với các cán bộ thuộc Trung ương Cục miền Nam và
Bộ Tổng tham mưu CS. Thọ tuyên bố thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch giải
phóng Sài Gòn Chợ Lớn, Tư lệnh Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Chính ủy Phạm
Hùng, Phó Tư Lệnh Thượng Tướng Trần Văn Trà. Bộ Tư lệnh bàn kế hoạch
đánh chiếm Bộ TTM, dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Bộ Tư lệnh
Cảnh Sát Quốc Gia, Phi trường Tân Sơn Nhất.
Ngày 21-4, Nguyễn Văn thiệu từ chức Tổng thống tại dinh Độc lập để rồi mấy hôm sau ra khỏi nước.
Phó Tổng thống Trần văn Hương lên thay, trong khi ấy các nhà ngoại
giao quốc tế ra sức vận động hai bên để tránh cho Sài Gòn khỏi trở thành
bãi chiến trường. Mấy hôm sau Cộng quân bắn 4 trái hoả tiễn 120 ly vào
Khánh Hội làm cháy mấy chục căn nhà. Đài BBC nói BV cảnh cáo chính phủ
Trần Văn Hương phải bàn giao cho một chính quyền do họ chỉ định, người
ta hiểu ngay đó là nhóm chính khách thứ ba do ông Dương Văn Minh lãnh
đạo. Ngày 27-4 Quốc Hội nhóm họp để biểu quyết việc trao quyền cho Dương
Văn Minh.
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3 QLVNCH tổ chức phòng
thủ Thủ đô trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa
hơn tầm pháo của đại bác 130 ly VC đồng thời bảo vệ các căn cứ quan
trọng tại Biên Hoà, Củ chi, Lai Khê, Long Bình.
Phía tây bắc là tuyến Củ chi với sư đoàn 25 BB và hai liên đoàn 8, 9
Biệt động quân. Tuyến Bình Dương ở phía bắc với sư đoàn 5 BB. Tuyến Biên
Hoà phía đông bắc với sư đoàn 18 BB và lực lượng Xung kích Quân đoàn 3.
Tuyến Vũng tầu và Quốc lộ 15 do lữ đoàn 1 Dù cùng với một tiểu đoàn
thuộc sư đoàn 3 BB và các đơn vị thiết giáp, Địa phương quân, nghĩa quân
của tiểu khu Phước Tuy phụ trách. Tuyến Long An phía nam ngoài lực
lượng địa phương quân, nghĩa quân cơ hữu còn có sư đoàn sư đoàn 22 BB
phụ trách cộng với sự tăng cường của trung đoàn 12 thuộc sư đoàn 7 BB và
trung đoàn 14 thuộc sư đoàn 9 BB và Liên đoàn 6 BĐQ.
Năm tuyến phòng thủ chính của ta cũng trùng với 5 hướng tấn công của
năm quân đoàn địch: Hướng tây nam là đoàn 232, Tư lệnh trung tướng Lê
đức Anh với các sư đoàn 3, 5, 8, 9 BB và 27 đặc công và 4 trung đoàn độc
lập 16, 24, 88, 71 và trung đoàn phòng không tiến từ sông Vàm Cỏ Đông
và Hậu Nghĩa. Quân đoàn 3, Tư lệnh thiếu Tướng Vũ Lăng gồm các sư đoàn
10, 316, 320 và 968 tiến về phía Tây Ninh. Phía bắc là quân đoàn 1, Tư
lệnh là Thiếu Tướng Nguyễn Hoà gồm các sư đoàn 312, 320B và 308 từ Lộc
Ninh và Phước Long tiến về khu tập trung ở phía nam sông Bé. Quân đoàn
4, Tư lệnh Thiếu tướng Hoàng Cầm gồm các sư đoàn 6, 7 và 341 sau khi
chiếm Xuân Lộc đang tiến về Trảng Bom. Mũi sau cùng là quân đoàn 2 , Tư
lệnh thiếu tướng Nguyễn Hữu An gồm các sư đoàn 3 Sao vàng, 304, 324B, và
325 tiến đánh Long Thành, Vũng Tầu, Phước Lễ.
Kế hoạch BV như sau: Hướng tây bắc quân đoàn 3 và địa phương quân Tây
ninh, Củ chi, các lực lượng đặc công biệt động, tăng pháo tiến đánh căn
cứ Đồng Dù, tiêu diệt sư đoàn 25 từ Củ chi đến Trảng bàng rồi tiến đánh
Tân sơn nhất, phối hợp với quân đoàn 1 đánh Bộ Tổng tham mưu sau đó
tiến về Dinh Độc Lập. Hướng bắc quân đoàn 1 cùng các lực lượng đặc công,
pháo binh, hoả tiễn.. bao vây căn cứ Bình Dương, Bến Cát rồi đánh BTTM,
BTL các binh chủng Gò gấp rồi tiến về dinh Độc Lập. Hướng đông quân
đoàn 4 tiến đánh Biên Hoà, phi trường BH rồi tiến vào quận 1 SG. Hướng
Đông nam quân đoàn 2 đánh Bà Rịa, Vũng Tầu.. để chặn đường rút lui của
VNCH, chiếm căn cứ Nươc Trong, Long thành, pháo kích phi trường TSN,
chiếm Long bình. Hướng tây, tây nam đoàn 232 chiếm Hậu nghĩa, rồi tiến
đánh Biệt Khu Thủ Đô.
Quân đội VNCH như chúng ta đã biết từ cuối tháng 3-1975 đã mất gần
một nửa lực lượng chủ lực. Tại Quân khu 3 ta chỉ còn 3 sư đoàn 25, 5, 18
và các đơn vị di tản từ miền Trung về với quân số thiếu hụt, tổng cộng
gần 6 sư đoàn để đối đầu với khoảng 20 sư đoàn BV. Lực lượng hai bên như
sau.
“Về tương quan lực lượng giữa hai bên thì QLVNCH chỉ có 6 sư đoàn để
bảo vệ thủ đô chống lại một lực lượng đông đảo với quân số gần 20 sư
đoàn CSBV. Ba sư đoàn 7, 9 và 21 BB thuộc quân đoàn IV QLVNCH không thể
dùng để tiếp ứng do điều kiện an ninh lãnh thổ của vùng đồng bằng sông
Cửu Long. CS cũng đã xác nhận cán cân lực lượng trong chiến dịch này như
sau:
Ta: 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4, và 232 bao gồm 15 sư đoàn bộ binh, 5 lữ
đoàn bộ binh biệt lập, 4 trung đoàn tăng thiết giáp và 6 trung đoàn đặc
công. Quân số tổng cộng khoảng 280 ngàn với 400 xe tăng và 420 pháo.
Địch: 5 sư đoàn bộ binh 5, 18, 22 và 25, sư đoàn TQLC, 2 lữ đoàn Dù,
lữ đoàn 3 Kỵ binh và 4 liên đoàn Biệt động quân. Quân số tổng cộng
khoảng 240 ngàn với 625 xe tăng thiết giáp và 400 pháo”
Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập.
Quân số của BV gồm 280 ngàn người trong đó đa số là thành phần tác
chiến, lính VC không có lương nên không có các đơn vị hành chánh tài
chánh, chúng cũng không có cứu thương y tế, bác sĩ, y tá… nên nói chung
thực lực địch đông đảo hơn ta nhiều.
Quân số của VNCH là 240 ngàn nhưng trong đó chỉ có khoảng sáu chục
ngàn là lính nhà nghề, còn lại là địa phương quân, nghĩa quân và các
thành phần không chiến đấu. BV có đầy đủ đạn dược trong khi ta gặp khó
khăn về tiếp liệu, lực lượng hai bên trên thực tế chênh lệch, ưu thế
quân sự về phía địch.
Bắt đầu từ 26-4-1975 VC đã bắt đầu tấn công vào Trường Thiết Giáp
Long Thành, căn cứ Nước Trong , đặc công tấn công Tân cảng , cầu xa lộ,
đài ra đa Phú Lâm nhưng thất bại bị đẩy lui.
Sáng ngày 27-4 sư đoàn 3 BV tấn công chiếm Phước Lễ, Lữ đoàn Dù rút
về Vũng Tầu, sư đoàn 18 được lệnh lui về giữ Trảng Bom. Phía tây các căn
cứ dọc theo Vàm Cỏ Đông lần lượt bị VC chiếm, chúng pháo phi trường
Biên Hoà dữ dội, sư đoàn 3 Không quân phải di về Tân sơn nhất và Cần
thơ. Phía tây nam đoàn 232 cắt quốc lộ 4 nhiều nơi để chận viện binh từ
quân khu 4, phía bắc quân đoàn 1 BV tiến về Thủ Đầu Một, phía tây bắc
quân đoàn 3 BV cắt quốc lộ 1 và 21 để chặn đường rút của sư đoàn 25 BB.
Chiều ngày 28-4 Tướng Dương Văn Minh tuyên thệ nhậm chức Tổng thống
tại dinh Độc Lập, chừng một tiếng sau, phi công nằm vùng trung úy Nguyễn
Thành Trung hướng dẫn năm phi cơ A-37 của ta do Việt Cộng chiếm được
ném bom phi trường Tân Sơn Nhất rung chuyển cả trời đất khiến dân chúng
Đô thành hốt hoảng. Tối hôm ấy BTL Quân đoàn 3 di chuyển từ Biên Hoà về
Gò Vấp.
Người phi công chiến đấu cuối cùng. Hình dưới: Phi Cơ AC-119K của Không Lực VNCH bị rớt trong ngày 29-4-1975.
30-4 Binh sĩ VNCH ngăn địch trên cầu xa lộ (Tân Cảng)
Từ 4 giờ sáng ngày 29-4 BTTM, phi trường Tân Sơn nhất, BTL Hải quân
bị pháo kích dữ dội. Cộng quân chiếm được Nhơn Trạch đặt hai khẩu 130 ly
pháo 300 quả vào Tân Sơn Nhất gây nhiều thiệt hại nặng, các bãi đậu phi
cơ, bồn chứa nhiên liệu, kho đạn bị trúng pháo kích gây nhiều đám cháy
lớn. Sư đoàn 325 BV chiếm Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, tiến về Cát Lái. Sư
đoàn 304 chiếm căn cứ Nước Trong.
Trong khi ấy Dương văn Minh cử ba người sứ giả đến trại Đê Vít tại
Tân Sơn Nhất để thương thuyết ngưng bắn với phái đoàn Quân sự VC nhưng
bị Đại tá Võ Đông Giang bác bỏ.
Tại Biên Hòa sư đoàn 18 cùng với lực lượng xung kích Quân đoàn 3, Lữ
đoàn 4 Dù và 469 TQLC … vẫn giữ được phòng tuyến. Buổi chiều Bộ Tư lệnh
Hải quân và Không quân di tản. Một liên đoàn BĐQ tại Bến Tranh Bắc Mỹ
Tho được lệnh trực thăng vận về Cần Đước ngăn chận Việt Cộng trên liên
tỉnh lộ 5A nhưng không có trực thăng, do đó Chợ Lớn được coi như bỏ ngỏ.
Đến tối Cộng quân đụng độ với các chiến đoàn 315, 322 tại hai hướng
đông bắc thành phố. Trung tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng tham mưu trưởng lệnh
cho sư đoàn 18 BB về giữ khu vực nằm giũa Thủ Đức và nghĩa trang Quân
đội.
Phía bắc, căn cứ Lai Khê của sư đoàn 5 bị địch pháo kích dữ dội, quận Bến Cát bị tấn công.
Phía tây 2 liên đoàn 8, 9 BĐQ bị thiệt hại nặng , VC bỏ xác cả trăm
tên cùng 18 xe tăng bị bắn cháy, quốc lộ 1 giữa Sài Gòn và Củ Chi bị
gián đoạn.
Sư đoàn 22 BB vẫn làm chủ được tình hình phía nam, mặc dù bị VC tấn công.
Chiều 29-4 toà Đại sứ Mỹ bắt đầu di tản bằng trực thăng, sau 19 giờ
bay liên tục 80 trực thăng đã chở đi được hơn 1,000 người Mỹ và khoảng
6,000 người Việt Nam ra ngoài hạm đội.
Ngày 30-4 một trung đoàn BV giao tranh ác liệt với quân Dù tại Ngã Tư
Bẩy Hiền và Lăng Cha Cả, VC bị thiệt hại nặng tới 50% quân số. Địch tấn
công trại Hoàng Hoa Thám, BTL không quân, căn cứ sư đoàn 25 BB VNCH
thất thủ, chuẩn Tướng Lý Tòng Bá bị bắt.
Mặt trận Ngã Tư Bảy Hiền, Tổng
Tham Mưu, những chiến sĩ Biệt Kích 81 Dù bắn cháy xe tăng cộng sản ngay
tại cổng Phi Long (cổng vô phi trường Tân Sơn Nhất), Lăng Cha Cả. Hình dưới: Các chiến sĩ binh chủng Biệt Động Quân được điều động trấn giữ tại mặt trận Phú Lâm.
Cộng quân xâm nhập Ngã Tư Bẩy Hiền, trong vòng 15 phút có 6 chiến xa
bị liên đoàn 81 Biệt Cách Dù bắn hạ, địch bị chận đánh tơi bời phải rút
khỏi ngã tư Bẩy Hiền.
Theo Tướng Hoàng Lạc, ông Dương Văn Minh lại cử người tới Tân Sơn
Nhất để thương thuyết với VC xem có vớt vát được tí nào không nhưng họ
vẫn một mực đòi phải buông súng đầu hàng nếu không chúng sẽ bắn phá dữ
dội thành phố. Sài Gòn bây giờ đang nằm trong tầm pháo của quân thù.
Tướng Dương Văn Minh phần vì thấy phòng tuyến của ta đã sụp đổ dưới các
trận tấn công, pháo kích của địch, chúng đã vào sát thành phố không hy
vọng cứu vãn được tình thế. Lúc 10 giờ 30, trên đài phát thanh, ông tân
Tổng thống kêu gọi các cấp chỉ huy, binh sĩ QĐVNCH ngưng bắn giao nạp vũ
khí cho các đơn vị Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam để tránh đổ máu vô ích.
Khi ấy tiếng súng trận khắp nơi đều đã im bặt.
Dương Văn Minh tuyên bố ngưng bắn thì Lê Đức Thọ ban lệnh cho các
quân đoàn BV không chấp nhận đình chiến “cứ tiến thẳng vào Sài Gòn tước
vũ khí và bắt quân ngụy đầu hàng không điều kiện.” Cộng quân tiến vào
Thủ Đô đang bỏ ngỏ làm bốn ngả: Cánh thứ nhất từ Long Khánh theo xa lộ
Biên Hoà, thứ hai từ Củ Chi qua Ngã Tư Bẩy Hiền, thứ ba từ Long An kéo
lên qua ngả Phú Lâm Chợ Lớn, cánh cuối cùng từ Bình Dương theo xa lộ Đại
Hàn vào Hàng Xanh.
Theo báo Sài Gòn Giải Phóng năm 1976 nhân ngày kỷ niệm chiến thắng
30-4, VC cho biết đoàn quân vào dinh Độc Lập trước nhất là cánh từ Long
An , họ có chụp hình những chiếc xe lội nước PT-76 vào sân dinh và bộ
đội thiết giáp VC trên xe nhẩy xuống. Theo tài liệu của ký giả ngoại
quốc hoặc do lời kể của các viên chức chính phủ trong dinh Độc Lập thì
cánh quân từ Biên Hoà cùng với các xe T-54 đã tiến chiếm dinh Độc Lập
trước tiên.
Báo VC năm 1976 cho biết người đi đầu là một viên đại uý, được các
viên chức tiếp đón tại cửa vào, y hỏi thăm đường lên lầu rồi vội kéo cờ
vàng của ta xuống để treo cờ Mặt trận lên để chứng tỏ giang sơn này, đất
nước này đã hoàn toàn thuộc về CS. Trong số các sĩ quan BV vào tiếp thu
dinh Độc Lập sau đó, người cấp bậc cao nhất là một Đại tá ký giả chiến
trường (journaliste de guerre), các tài liệu Mỹ (Vietnam, A History; The
World Almanac Of The Vietnam War) đều nói tên người này là Bùi Tín. Báo
chí VC năm 76 đăng tấm hình ngày 30-4-1975 tại dinh Độc Lập, Dương Văn
Minh nói với viên Đại Tá VC bước vào dinh.
“Chúng tôi chờ các ông đến để bàn giao quyền hành.”
Viên Đại tá VC (không thấy nói tên) người to lớn nắm tay trợn mắt la
lối dữ tợn trước ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu nguyên văn.
“Các ông còn cái gì nữa để mà bàn giao, các ông phải đầu hàng vô điều kiện”.
Rồi hống hách bắt Tướng Dương Văn Minh phải lên đài phát thanh tuyên
bố đầu hàng. Bùi Tín nói láo hoàn toàn, trong khi ấy Quân khu 4 vẫn còn
nguyên vẹn với hơn 200 ngàn địa phương quân và ba sư đoàn BB chủ lực. Vì
là một bọn nhà quê, VC không biết một tí gì về nghi lễ quốc tế của
chiến tranh, quân sự. Khi tiếp thu một cuộc đầu hàng tại mặt trận, nếu
là cấp bậc thấp hơn phải chào người cấp bậc cao dù kẻ ấy thua trận, kế
đó bắt họ ký giấy đầu hàng không thể chửi bới vô phép như vậy. Theo lời
kể của cựu dân biểu Lý Quí Chung thì cả những tên sĩ quan cấp úy BV khi
mới vào dinh cũng quát tháo những người cầm đầu chính phủ và gọi họ bằng
anh.
“Các anh phải hàng hết.”
Chúng ta thấy rõ các thanh niên xuất thân từ một xã hội bán khai lạc hậu như miền Bắc chỉ là những người thiếu giáo dục.
Sau khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì các mặt trận quanh
Sài gòn đều im tiếng súng chỉ còn một vài trận lẻ tẻ như tại Hố Nai, bốn
tiếng sau lệnh đầu hàng, Thiếu Uý Tư, Biệt kích Dù và năm người lính
thân tín dùng súng chống chiến xa M-72 phục kích bắn cháy, lật một xe
Jeep, một T-54, 2 xe Molotova… rồi chạy thoát hết. Khi ông Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng thì Tướng Phạm Văn Phú Tư lệnh Quân đoàn 2 và
Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh sư đoàn 5 tự sát.
Một vị sĩ quan với nhiều suy tư sau khi nghe lịnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh qua radio. Hình bên: Cảnh trong sân Dinh Độc Lập sau khi việt cộng vào.
Quân khu 4 vẫn còn nguyên vẹn, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam không cho
giật sập cầu Long An như Tỉnh trưởng đề nghị. Theo lời kể của Trung úy
Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên của Tướng Nam thì, trước khi tự sát ông
đã thắp nhang lễ vái trước bàn thờ Phật. Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư
lệnh phó tự sát chiều tối 30-4, hôm sau 1-5 Tướng Nam cũng tự sát lúc 7
giờ rưỡi sáng, Chuẩn tướng Trần Văn Hai tư lệnh sư đoàn 7 cũng tự vẫn.
Thực ra rất nhiều người quyên sinh trước ngày tàn của chế độ, của đất
nước như thiếu tá Đặng Sĩ Vinh thuộc BTL Cảnh sát Quốc gia tự sát lúc 2
giờ chiều 30-4 cùng vợ và 7 người con tại nhà riêng. Trung tá Vũ đình
Duy, Trung tá Nguyễn Văn Hoàn thuộc Đơn vị 101 tự sát… Các quân nhân
Biệt kích Dù cũng như nhiều binh chủng khác đã mở lựu đạn tự tử vì chán
chường thất vọng khi thấy đất nước lọt vào tay quân thù. Ngoài ra còn
nhiều người tự sát ngoài mặt trận như Trung tá Nguyễn Hữu Thống trung
đoàn trưởng trung đoàn 42 (sư đoàn 22) khi tầu Hải quân vào Qui Nhơn cứu
đám tàn quân của sư đoàn cuối tháng 3-75 , Trung tá Thống từ chối di
tản ở lại tự sát. Đại Tá Lê Cầu, Trung đoàn trưởng trung đoàn 47 (sư
đoàn 22) cũng tự sát ngoài mặt trận khi không còn lối thoát.
Tháng 4 năm 2006 một cựu sĩ quan tham mưu của Quân đoàn 4 tiết lộ
ngày 30-4-1975 họ đã dự định hành quân qua Miên sang Thái Lan hoặc ra
Phú Quốc lập phòng tuyến chống lại CS, cũng có người cho rằng Quân khu 4
chờ chính phủ Sài Gòn dời xuống để tiếp tục chiến đấu nhưng ông Dương
Văn Minh lại đầu hàng địch. Theo lời kể của Trung uý Danh, tuỳ viên của
Tướng Nam thì ông là người nhân ái, sùng đạo Phật không muốn đổ máu, ông
hay lễ bái trước bàn thờ Phật tại văn phòng.
“Là một tư lệnh Quân đoàn, đã nắm trong tay nhiều đơn vị trung thành,
tướng Nguyễn Khoa Nam có thể ra lệnh tiếp tục chiến đấu, nhưng là vị
tướng có lòng nhân ái, không muốn binh sĩ và đồng bào đổ máu vô ích, ông
không cho phá cầu, ông không muốn có người chết thêm.”
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Bút ký của Trung úy Lê Ngọc Danh.
Di tản tại Bến Bạch Đằng. Sau ngày 30-4, đất nước toàn bộ rơi vào tay cộng sản. Những cuộc vượt biên, vượt biển kinh hoàng, liều chết đi tìm Tự Do của người dân Việt Nam cũng bắt đầu.
Nhận xét về Tướng Dương Văn Minh nhiều người hồi đó cũng như bây giờ
chỉ trích chê bai ông là kẻ đầu hàng địch, dâng nước cho Việt Cộng,
nhưng cũng có nhiều người đồng ý với quyết định củaTướng Minh cho rằng
tiếp tục chiến đấu sẽ chỉ gây thêm tang tóc đổ máu cho quân dân một cách
vô ích không hy vọng gì cứu vãn tình thế. Sau khi ra định cư tại Hải
ngoại, Đại Tướng Dương Văn Minh đã trả lời phỏng vấn:
“Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.
Nhiều người bỏ nước chạy trước khi Sài Gòn thất thủ cả tuần hoặc hai
ba tuần lễ nhưng nay cũng vẫn lớn tiếng chê bai Tướng Minh đầu hàng phản
bội!.
Quyết định đầu hàng của Dương Văn Minh có thể coi là hợp tình huống
vì dù tiếp tục chiến đấu anh dũng cũng vẫn thua, tuy nhiên sau này ông
lại chấp nhận để Việt Cộng phục hồi quyền công dân cho mình và đi bầu
Quốc Hội VC thì thật là thiếu tự trọng, một người cấp bậc Đại Tướng bốn
sao như ông không thể hèn nhát như vậy được. Trong khi có những Tướng
lãnh, quân nhân… tự sát để giữ danh dự cho QĐVNCH thì lại có những nhà
quân sự, công chức cao cấp hèn nhát bỏ chạy và rồi sau đó còn huyênh
hoang tuyên bố chỉ trích người này người nọ.
Việt Cộng bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài Gòn từ 26-4- 1975, bốn
ngày sau phòng tuyến của ta đã hoàn toàn sụp đổ. Trước khi Dương Văn
Minh lên làm Tổng Thống người ta đã đoán biết công việc của ông chỉ là
để đầu hàng. Một viên chức hành chánh thân cận của ông Trần Văn Hương
sau này tiết lộ hồi đó ông Hương cho biết người ta đã sắp đặt sẵn để ông
Thiệu bàn giao cho ông Hương rồi ông Hương bàn giao cho ông Minh, ngay
cả việc Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tuỳ viên quân sự DAO Mỹ rút lui
cũng là do người ta sắp đặt cả. Khi Dương Văn Minh đang làm lễ bàn giao
ngày 28-4 thì đài BBC đã nói.
“Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử giữ chức vụ Quyền
Tổng thống do ông Trần Văn Hương trao lại để chuẩn bị cho một cuộc đầu
hàng.”
Như thế mọi việc đã được sắp đặt cả, tất cả chỉ là một tấn tuồng hề
chính trị. Nhiều người không tin tưởng ông Dương văn Minh, họ cho rằng
sau cuộc đảo chính 1-11-1963, cờ đã đến tay mà ông không phất được thì
chẳng bao giờ thành công. Khi hai Tướng Thiệu và Khiêm ra đi hôm 24-4,
quân dân đều thất vọng lớn, ai nấy thừa hiểu số phận của miền Nam như
thế nào, lại nữa hai hôm sau đó, Tổng Thống Trần Văn Hương hiệu triệu
đồng bào về tình hình vô cùng bi đát của đất nước, ông đã khóc lóc trên
làn sóng điện về viễn ảnh “cái núi xương sông máu của thành phố Sài Gòn”
khiến cho quân dân ai nấy mất hết tinh thần.
Phần thì ta không đủ lực lượng để chống lại gần 20 sư đoàn Cộng quân,
phần vì đạn dược thiếu hụt do cắt quân viện, lại nữa trong hàng lãnh
đạo nhiều người bỏ trốn như ngày 28-4 các ông Tổng tham mưu trưởng, Tư
lệnh quân đoàn 3 và nhiều ông lớn khác đã “tẩu vi thượng sách”, cha
chung không ai khóc… Đài BBC Luân Đôn cũng tuyên truyền phá hoại khiến
binh sĩ thất vọng chán chường, tinh thần chiến đấu của quân ta không còn
nữa. Lực lượng phòng thủ dần dần rã ngũ, một số đơn vị can đảm chiến
đấu tới cùng nhưng dù tinh thần chiến đấu cao tới đâu cũng không thể
địch nổi lực lượng quá đông đảo và hoả lực hùng hậu của quân thù.
Sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Quân khu 4 vẫn còn nguyên
vẹn 3 sư đoàn chủ lực và hơn 200 ngàn địa phương quân, một lực lượng
đông đảo chiếm 40% tổng số ĐPQ toàn quốc. Điều này cho ta thấy rõ sự bố
trí lực lượng của ta sai lầm và phí phạm. Tháng 3-1975, trong khi vùng
1, 2 bị Cộng quân tấn công vây hãm tơi bời ta vẫn không chịu rút bớt
quân từ Vùng 4 lên yểm trợ tuyến đầu và cuối tháng 4-1975 khi Sài Gòn
như người bệnh nhân hấp hối cũng vẫn không chịu dốc quân từ vùng 4 lên
đánh xả láng một ván bài chót.
Trận đánh cuối cùng đã kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương chỉ kéo
dài có mấy ngày từ 26-4 cho tới 30-4 -1975, cũng vào ngày này 30 năm
trước đó, năm 1945 tại Bá Linh quân Đức đầu hàng Nga. Sài Gòn tái diễn
lịch sử nước Đức Thế Chiến Thứ Hai, có khác chăng tại Bá Linh giới lãnh
đạo không bỏ trốn và ép buộc quân đội của họ chiến đấu tới người lính
cuối cùng.
Kể từ ngày Cộng quân đánh chiếm quận Đức Lập 9-3-1975 và Ban Mê Thuột
10-3 để mở đầu cuộc Tổng công kích cho tới 30-4-1975, ngày kết thúc chỉ
vỏn vẹn có năm mươi mấy ngày. Võ Nguyên Giáp ra lệnh tấn công quân Pháp
tại Hà Nội nửa đêm 19-12-1946 là ngày khởi đầu cuộc chiến tranh dài
nhất của thế kỷ đến trưa ngày 30-4-1975 là ngày kết thúc tính ra đã gần
30 năm.
Theo thời gian những bí mật dần dần được tiết lộ, trận chiến mất nước
1975 đã được sắp đạt sẵn y như một vở tuồng hề, Việt Nam đã trở thành
bãi chiến trường tan nát vì bom đạn, tệ hại hơn thế nữa, nó đã trở thành
món hàng mua bán đổi chác giữa các thế lực siêu cường.
Trọng Đạt
Tài Liệu Tham Khảo
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam, 2000.
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc (Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt nam 1945-1975) Tiếng Quê Hương 2006.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản, 2005.
Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội 2005.
Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn, nhà xuất bản Quân Đôi Nhân Dân, Hà Nội 2005.
Dương Đình Lập, Trần Minh Cao: Cuộc Tổng Tiến Công và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, nhà xuất bản tổng hợp TPHCM 2005.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1991.
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Vietnam, Sphinx publishing 1986.
The World Almanac Of The VietNam War: John S.Bowman, General editor, A Bison book.
Stanley Karnov: Vietnam – A History, Penguin books 1991.
Marilyn B Young, John J. Fitzgerald, A.Tom Grunfeld: The Vietnam War, A History In Documents, Oxford University press 2002.
Lâm Lễ Trinh: Tổng Thống Hai Ngày Dương Văn Minh, Người Việt Dallas 30-6-2005.
Trần Việt Đại Hưng: Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam 1975, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2002.
Lữ Lan: Cuộc Chiến 30 Năm NHìn Lại Từ Đầu, Sài Gòn Nhỏ Dallas 28-4-2006.
Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas 7-10-2005.
NgườiMỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, Người Việt Dallas 21-6-2006.
Lâm Lễ Trinh: Mạn Đàm Với Đại Tướng Cao Văn Viên, Về Nguồn, Thuỷ Hoa Trang 2006.
Hồ Đinh: Cơn Phẫn Nộ Cuối Cùng Của Một Quân Đội Bị Phản Bội, Người Việt Dallas 23-12-2005.
Lewis Sorley, Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006.
Cao Văn Viên: Tuyến Đầu Vùng Một Thất Thủ, Thằng Mõ Sacramento, số cuối tháng 4-2006.
Mường Giang: Tiểu Khu Bình Thuận Và Tháng 4-1975 Đẫm Máu Và Nước Mắt, Sài Gòn Nhỏ Dallas cuối tháng 4-2005.
Hồ Đinh: Sư Đoàn 18 Bộ Binh Và Những Ngày Tử Chiến Tại Xuân Lộc, Sài Gòn Nhỏ Dallas cuối tháng 4-2005.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (RVNAF 1968-1975, Bill Laurie) , Nguyễn Tiến Việt dịch, Con Ong Việt số 71, tháng 5 -2006.
Trần Trung Đạo: 30 Năm Nhìn lại, Con Ong Việt số 60, tháng 5-2005.
Hải Triều, Trung Nghĩa: Bán Tiểu Đội Biệt Cách Dù & Trận Đánh
Chớp Nhoáng Sau Lệnh Đầu Hàng 30-4-75, Sài Gòn Nhỏ, cuối tháng 4-2006.
Nguyễn Văn Lục: Đi Tìm Thời Gian Đánh Mất, 30-4-1975, 30-4-1976, 30-4-2007, Sài Gòn Nhỏ Dallas, 6-4-2007.
Lê Ngọc Danh: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, (bút ký của sĩ quan tuỳ viên Tướng Nguyễn Khoa Nam), Bút Việt 28-4-2006.
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.