Chọn kinh tế hay nhân quyền?
Cập nhật: 13:32 GMT - thứ hai, 20 tháng 5, 2013
Việt Nam tham gia cả RCEP lẫn TPP và ngày càng muốn cân bằng mối quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ.
Trung Quốc và RCEP
RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership)
-
Được bàn thảo từ 2006, nay RCEP bao gồm 16 quốc gia trong khu vực châu Á–Thái Bình Dương
-
Các thành viên gồm 10 quốc gia ASEAN (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Brunei, Việt Nam, Lào, Miến Điện, Campuchia), Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand vàÚc (gọi tắt là ASEAN+6)
-
RCEP không có sự hiện diện của Hoa Kỳ
RCEP có thể giúp thúc đẩy thương mại Việt Nam vượt xuyên ra khu vực châu Á–Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, thời gian gần đây Hà Nội thường xuyên có những mối lo ngại lớn hơn về mặt chiến lược đối với sự áp đảo ngày càng gia tăng của Trung Quốc, đặc biệt các vụ tranh chấp quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông.
Gần đây Hà Nội đã hoan nghênh tiếp nhận những lời đề nghị mang tính hợp tác từ phía Hoa Kỳ, nhưng những bước tiến này vẫn chưa đủ mạnh đến mức có thể làm Trung Quốc phiền lòng.
Nếu không có sự đối trọng đến từ Hoa Kỳ, Việt Nam có thể sẽ mắc phải sự chi phối kinh tế từ Bắc Kinh, đặc biệt khi Việt Nam vẫn là nước tiêu thụ lượng hàng nhập khẩu rất lớn từ Trung Quốc.
Hoa Kỳ và TPP
Với Hà Nội, tầm quan trọng của TPP không thể xem nhẹ vì nó sẽ giúp mở rộng thêm nhiều cơ hội kinh tế đối với Việt Nam và đẩy mạnh việc xuất khẩu sang thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới bên kia Thái Bình Dương.TPP cũng bao gồm nhiều thành viên RCEP, nhưng quy mô rộng lớn của TPP đòi hỏi các nước thành viên đầu tiên phải giải quyết những khác biệt trước khi nêu ra bất kỳ mối quan ngại nào trong các vòng đàm phán TPP, bao gồm cả việc bảo vệ và nâng cao các điều luật trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
TPP (Trans-Pacific Partnership)
-
TPP là Hiệp định Tự do Thương mại do Hoa Kỳ chủ xướngvới mục đích hội nhập các nền kinh tếthuộc 12 quốc gia Xuyên-Thái Bình Dương
-
Khởi đầu là TPSEP, gồm bốnthành viên sáng lập hồi 2005 là Brunei, Chile, New Zealand, Singapore. Tới 2010 TPSEP được đề xướng mở rộng thành TPP, với các nước đang đàm phán tham gia là Australia, Canada, Malaysia, Mexico, Nhật Bản, Peru, Hoa Kỳ, và Việt Nam
-
TPP không có sự tham gia của Trung Quốc
Cho đến giờ phút này, Hoa Kỳ vẫn còn quan ngại về những yếu kém liên quan đến hồ sơ nhân quyền tại Việt Nam.
Đây cũng chính là lý do khiến đối thoại nhân quyền thường niên năm 2012 giữa Washington và Hà Nội bị trì hoãn. Mặc dù Washington có thúc ép tới đâu thì tình hình nhân quyền tại Việt Nam vẫn ngày càng xấu đi kể từ khi nước này được gia nhập vào WTO hồi năm 2007.
Việc này được thể hiện qua các vụ bắt bớ các nhà hoạt động xã hội, nhà báo, bloggers, và những nhân vật sinh hoạt chính trị ôn hòa có ý kiến trái chiều với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cải thiện nhân quyền
Để rút ngắn khác biệt giữa hai nước, Hoa Kỳ có thể bắt đầu bằng việc yêu cầu Việt Nam cải cách những điều khoản cơ bản về luật lao động, bao gồm cả việc cho phép thành lập các công đoàn độc lập không bị kiểm soát bởi Đảng Cộng sản Việt Nam.TPP có khả năng sẽ đề cập đến các vấn đề liên quan tới quyền lao động, mặc dù cho đến nay TPP vẫn chưa chính thức cam kết thiết lập quy chuẩn lao động và cơ chế thi hành.
Hiện vẫn chưa rõ sự khác biệt về nhân quyền giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ được giải quyết như thế nào nhưng có một số nhượng bộ mà lãnh đạo Việt Nam có thể dễ dàng đáp ứng, bao gồm cả việc thả một số nhân vật bất đồng chính kiến và nới lỏng chính sách kiểm duyệt Internet.
Các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam có thể cần phải vượt qua thử thách về nhân quyền và tìm cách dung hòa với Hoa Kỳ nhưng rất khó để họ nới lỏng hệ thống kiểm soát chính trị chặt chẽ hiện nay nhất là đối với những ý kiến bất đồng mang tính tổ chức.
Nếu việc cải cách diễn ra quá mạnh mẽ, Đảng Cộng sản có thể vô tình làm tăng thêm sức mạnh cho các nhà hoạt động dân chủ và những tiếng nói phản biện hay đối lập.
Nhưng nếu Đảng Cộng sản không thực sự cải cách hoặc quá trình cải cách không mang lại hiệu quả như mong đợi thì Việt Nam đứng trước khả năng đánh mất cơ hội gia nhập TPP.
Sửa đổi luật lao động có thể chỉ là bước khởi đầu trong các vòng đàm phán.
Khi các thỏa thuận của TPP được thực hiện, có khả năng rất lớn rằng các tổ chức bảo vệ nhân quyền cũng như nhiều nhóm vận động khác nhau sẽ lên tiếng yêu cầu Việt Nam trả tự do cho toàn bộ các tù nhân chính trị bị cáo buộc bởi các điều khoản mập mờ như “tuyên truyền chống nhà nước”, “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền” hay “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước”.
Nếu Hoa Kỳ tạo sức ép quá mạnh về những vấn đề liên quan đến nhân quyền, Việt Nam có thể rút khỏi TPP.
Nhưng nếu Hoa Kỳ đặt chính sách hợp tác kinh tế thương mại lên trên những nguyên tắc cơ bản về dân chủ và nhân quyền thì chính phủ của Tổng thống Obama có thể phải đối mặt với nhiều phản đối từ Quốc hội cũng như các nhóm bảo vệ nhân quyền.
Quyền lợi quốc gia
Nhân quyền là điểm khác biệt quan trọng giữa TPP và RCEP, vì RCEP không kèm theo bất cứ yêu cầu nào liên quan đến chính trị để làm điều kiện đầu tiên khi gia nhập.
Tuy nhiên, trong lúc Trung Quốc ngày càng quyết đoán hơn ở Biển Đông thì điều một nước nhỏ như Việt Nam cần hướng đến là một nền kinh tế không bị lệ thuộc và một đồng minh đủ tin tưởng hoặc ít nhất là đủ mạnh để hỗ trợ cho mình.
Hà Nội đã hé lộ trong các mối quan hệ chiến lược rằng Việt Nam đang cần Hoa Kỳ để đối trọng lại sức ảnh hưởng đang ngày càng gia tăng của nước láng giềng đầy tham vọng phương Bắc.
Tuy nhiên, để tiến tới mối quan hệ toàn diện thì không thể bỏ qua yêu cầu của Hoa Kỳ về một số cải cách quan trọng liên quan tới nhân quyền, điều mà các lãnh đạo Việt Nam đã cố tình cưỡng lại kể từ khi gia nhập WTO hồi năm 2007.
Có thể thấy rằng các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng trước ngã ba đường và việc lựa chọn không hề dễ dàng.
Nhưng để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững, đồng thời hạn chế sự ảnh hưởng của Trung Quốc và duy trì sự sống còn của mình, liệu các nhà lãnh đạo Việt Nam còn lựa chọn thông minh nào khác hơn là việc nới lỏng một số quyền kiểm soát chính trị theo những gì người dân đáng được hưởng?