mardi 31 janvier 2012

'Khai ruộng', người kéo bừa thay trâu

TPO – Trong khi nhiều người vẫn còn đang ăn Tết, du xuân… thì nông dân ở nhiều nơi phải ra đồng làm việc. Không trâu, không tiền thuê máy, một số hộ nông dân ở  Hưng Yên phải dùng sức người kéo bừa.
Bố con ông Kháng đi bừa trên đồng. Ảnh: Trường Phong
Bố con ông Kháng đi bừa trên đồng. Ảnh: Trường Phong.
Sáng mùng 6 Tết, ông Phạm Văn Kháng, 47 tuổi (xã Lạc Hồng, Văn Lâm, Hưng Yên) cùng con trai ra bừa khoảnh ruộng nhỏ ngay giáp quốc lộ 5. Sợi dây thừng được buộc vào hai đầu chiếc bừa, con trai ông Kháng vòng qua bụng, hai tay nắm chặt dây, kéo bừa đi. Đằng sau, ông Kháng lựa chiếc bừa đi theo bước chân con trai.
“Nhà tôi không có trâu. Mà trong làng cũng chẳng còn ai nuôi trâu, bò để mượn. Khoảnh ruộng thì nhỏ, thuê máy bừa vừa tốn tiền, vừa hỏng bờ, nên hai bố con làm cho tiện” – Ông Kháng cho biết.
Cách ruộng của ông Kháng vài khoảnh, dù ruộng khá rộng, nhưng cô Hòe (Lạc Hồng, Văn Lâm, Hưng Yên) cùng ba con gái cũng đang bừa ruộng bằng sức người. Cô Hòe cầm bừa, trong khi ba cô con gái ra sức kéo chiếc bừa trên ruộng cạn.
Ông Kháng cho biết, với những cánh đồng lớn, cả làng thường thuê máy cày, máy bừa, nhưng với những khoảnh ruộng nhỏ, làm riêng rẽ từng hộ… do không có trâu, bò, tiết kiệm tiền thuê máy, nên thường tận dụng sức người để cuốc, bừa ruộng.
Không có trâu, con trai ông Kháng phải kéo bừa cho bố. Ảnh: Trường Phong
Không có trâu, con trai ông Kháng phải kéo bừa cho bố. Ảnh: Trường Phong.
Bốn mẹ con cô Hòe cũng đang cố gắng bừa thửa ruộng cạn. Ảnh: Trường Phong
Bốn mẹ con cô Hòe cũng đang cố gắng bừa thửa ruộng cạn. Ảnh: Trường Phong .
Trường Phong

Thông tin mới vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng

 Chị Nguyễn Thị Thương, vợ của Đoàn Văn Vươn – chủ đầm bị cưỡng chế tại Tiên Lãng (Hải Phòng) đã có đơn tố giác kèm theo bản chữ ký xác nhận của người dân xã Vinh Quang liên quan đến việc ngôi nhà của hai anh em Vươn bị san phẳng.

Bức xúc trước việc ông Đỗ Trung Thoại, Phó Chủ tịch UBND TP.Hải Phòng thông tin “Việc phá nhà ông Vươn là do nhân dân bất bình và bức xúc quá nên làm vậy. Nhiều người dân không đồng tình với việc làm của ông Vươn và một số tờ báo viết sai” (lời ông Thoại tại cuộc họp giao ban báo chí tại Hà Nội vào sáng ngày 17/01/2012), chị Nguyễn Thị Thương (vợ Đoàn Văn Vươn) và chị Phạm Thị Hiền (vợ Đoàn Văn Quý) đã có đơn tố giác gửi cơ quan chức năng.
Trong lá đơn tố giác, chị Thương, chị Hiền khẳng định: sau khi cưỡng chế, hội đồng cưỡng chế đã hủy hoại tài sản, đập phá nhà cửa… sau đó giao cho công an xã và một số người lạ mặt khác trông coi, quản lý, không cho ai ra vào khu vực đầm.

Vợ con Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý “đón tết” tại căn lều bạt dựng trên nền đất cũ ngoài đầm.

Vì thế, không thể có chuyện người dân xuống được đầm để đập phá nhà cửa như thông tin ông Thoại đưa ra.
Hàng chục người dân xã Vinh Quang đã ký tên kèm trong lá đơn tố giác của chị Thương – Hiền khẳng định việc không có chuyện người dân đập phá nhà cửa của Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý như lời vị lãnh đạo của UBND TP.Hải Phòng đã nói.


Chiều ngày mồng 4 tết (ngày 25/1/2012), chị Nguyên Thị Thương, Nguyễn Thị Hiền đã bắt xe ôm lên Hà Nội để gửi đơn kêu cứu cho chồng (hai chị bị say xe). Đi cùng hai chị có cháu Đoàn Vũ Hải (8 tuổi) đi cùng. Trên đường về, vì trời lạnh và ngủ gật trên xe, cháu Hải đã bị bánh xe máy nghiến nát gót chân. Chị Thương, chị Hiền đã đưa cháu vào sơ cứu tại bệnh viện Cẩm Giàng (Hải Dương) sau đó đưa cháu về Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng để điều trị.
Trước Tết Nguyên đán, chị Thương, chị Hiền cùng các con đã dựng túp lều bạt trên nền đất cũ ngoài khu đầm bãi để ở tạm. Nhiều người dân xã Vinh Quang đã rất cám cảnh trước thực trạng này của vợ con chủ đầm Vươn – Quý. Chiều ngày 28/1/2012 (mồng 6 tết), phóng viên VietNamNet đã có mặt tại khu đầm bãi bị cưỡng chế của Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý. Căn lều bạt tạm bợ được dựng trên nền cũ của ngôi nhà hai tầng đã bị san phẳng thời điểm bị cưỡng chế (chiều ngày 05/1/2012).
Xung quanh ngổn ngang gạch đá, giữa khu đầm bãi rộng mênh mông, hoang lạnh. Tất cả các khu đầm của anh em Vươn – Quý đã bị nhiều người lạ tận thu, vơ vét thủy hải sản từ trước tết Nguyên đán.
Căn lều bạt tuềnh toàng chỉ có tấm chăn phủ trên chiếc giát giường đặt trên nền đất. Bên cạnh đó là đám lưới rách nát. Đồ đạc duy nhất là một bình nước uống đóng chai. Không có bất cứ một vật dụng nào khác, từ chiếc xoong nồi, bát đĩa…
Từ chiếc lều dựng tạm này, đi thêm vài trăm mét men theo bờ đầm được gia cố bằng những tấm bê-tông là khu vực nhà của Đoàn Văn Vươn. Khu nhà này cũng đã bị san phẳng từ nhiều ngày trước đó.
Gia đình Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý thường trú tại thôn Thúy Nẻo, xã Bắc Hưng, huyện Tiên Lãng (Hải Phòng). Khi bắt tay vào việc cải tạo đầm bãi cống Rộc, anh em Vươn – Quý đã bán toàn bộ ruộng vườn, nhà cửa tại Bắc Hưng để lấy vốn đầu tư.
Nhiều năm nay, vợ chồng, con cái, anh em Quý – Vươn sống tại khu đầm bãi do mình cải tạo và được huyện Tiên Lãng cho thuê. Do đó, sau khi nhà cửa bị san phẳng, vợ con Vươn – Quý không có nhà để ở, phải đi ở nhờ.
Sau nhiều ngày bị ngăn cấm, hai chị em Thương – Hiền cùng các con đã về dựng lều ở khu vực đầm. Rất nhiều người dân xóm Chùa Trên, người dân xã Vinh Quang đã kéo đến thăm hỏi và quyên góp tiền, gạo… hỗ trợ mẹ con các chị chút ít để đón tết.
Chị Nguyễn Thị Thương khẳng định: mẹ con chúng tôi không nhận được bất cứ sự hỏi thăm nào của đoàn thể, tổ chức, chính quyền Tiên Lãng. Lý do: họ cho rằng gia đình chúng tôi không có hộ khẩu ở địa phương nên chính quyền xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng không hỗ trợ Tết.
Trong khi đó, ông Lê Văn Hiền, Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng cho biết: Việc này là do chính quyền cơ sở xem xét để có quyết định thăm hỏi động viên. Tôi chưa nắm được anh em cơ sở có thăm hỏi hay không, tôi phải trao đổi lại xem thế nào...

Cháu Đoàn Vũ Hải nằm điều trị 


Bí thư Đảng ủy xã Vinh Quang, ông Phạm Đăng Hoa cho biết: mặc dù sinh sống và làm ăn tại xã Vinh Quang nhưng do gia đình ông Vươn, ông Quý không có hộ khẩu ở đây nên việc lo Tết và bảo đảm cuộc sống sau vụ thu hồi đầm không thuộc trách nhiệm của xã.

Trước đó, trong buổi làm việc với đoàn giám sát của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chiều 21-1 (28 tháng Chạp), ông Lê Văn Nhã, Phó Chủ tịch Thường trực MTTQ TP Hải Phòng khẳng định: “TP Hải Phòng sẽ không để một người dân khó khăn nào không có Tết”.

Trong cuộc họp báo vào chiều ngày 12/1 trước đó tại trụ sở UBND TP.Hải Phòng, không có sự có mặt của các lãnh đạo chủ chốt, chỉ có sự tham gia của Chánh văn phòng UBND TP, Sở TN-MT, đại diện tòa án, Công an TP và lãnh đạo UBND huyện Tiên Lãng.

Kiên Trung

lundi 30 janvier 2012

NHỮNG TÊN SÁT NHÂN UỒNG MÁU ĐỒNG BÀO CUẢ MÌNH KHÔNG TANH
Thụy Vi
 
Tôi đả từng nghe chính miệng của tên sát nhân Hoàng phủ ngọc Tường trả lời phỏngvấn chiếu trên đài truyền hình Pháp là " Nhửng kẻ bị CS giết tại Huế rất đáng chết vìhọ là nhửng con rắn độc cần phải diệt trừ " ; họ là ai , họ là giới trí thức , sinh viênhọc sinh , dân lành vô tội , ngay cả 4 vị bác sỉ Đức làm từ thiện củng bị sát hại .Mời quý vị đọc và xem Video.

THẬT ĐÁNG THUƠNG TÂM CHO NHỮNG NẠN NHÂN Ở HUẾ, BỊ THẢM SÁT BỞI CHÍNH NHỮNG TÊN SÁT NHÂN UỒNG MÁU ĐỒNG BÀO CUẢ MÌNH KHÔNG TANH.

Nhang đèn góp giỗ (1)
“ Tôi được sinh ra ở Huế, lớn lên với Huế, nhưng khi trưởng thành, đã rời gia đình,bỏ thành phố và ra đi biền biệt.Hồi trước Tết Mậu thân, hôm 23 tháng chạp năm Mùi, đang cùng chồng con cúng ông táo, tôi bỗng nhận được điện tín từ Huế : về ngay, ba hấp hối.
Với một gói hành lý vội vàng, đứa con hư hỏng của gia đình và thành phố là tôi, đã trở lại Huế để chịu tang người cha thân yêu. Và rồi như bao người khác, đã phải chịu luôn cái tang lớn cho cả thành phố, khi biến cố tết Mậu Thân bùng nổ.
Sau cả tháng dài lăn lộn trong địa ngục Huế, khi sống sót trở về Sàigòn, tôi đã thao thức mãi về việc phải thắt một giải khăn sô cho Huế, phải viết một hồi ký về những ngày giờ hấp hối của Huế. Nhưng thời sự những ngày sau biến cố Tết Mậu Thân ồn ào quá, bên cạnh cơn khóc than vật vã của Huế, người ta còn bận bịu với việc khai thác những chi tiết ly kỳ của chiến cuộc, những thành tích chiến thắng trên tro tàn, thật chưa phải là lúc viết ra những sót sa, tủi nhục, tuy tầm thường nhất, nhưng
cũng lại là sâu sắc nhất của một thành phố hấp hối.
Chính vì vậy mà sau khi phác họa một vài nét đại cương trên nhật báo Sống hồi ấy, mặc dù được tòa soạn yêu cầu tiếp tục và sau đó được nhiều nhà xuất bản thúc dục, tôi cũng đã cố gắng ngưng lại. Phải ngưng lại, để nếu không nghiền ngẫm được kỹ hơn, thì ít ra cũng tách rời được khỏi những hậu ý xô bồ của thời cuộc, để chờ đợi một giây phút yên lặng hơn, trầm tĩnh hơn, khi viết về Huế.
Cái thời gian chờ đợi ấy, đến nay, đã gần hai năm qua, Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát, vùi nông ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đã được thu nhặt dần. Những nấm mồ tập thể đã tạm thời xanh cỏ. Những nền nhà đổ nát đã tạm thời dựng lại. Cơn khóc than vật vã của Huế, những tiếng nói xô bồ về Huế, như vậy, cũng đã bớt ồn ào.
Đây, chính là lúc chúng ta có thể cùng nhau chít lại giải khăn sô, đốt lại nén hương nhỏ trong đêm tối mênh mông của chiến tranh và tang tóc, để hồi tưởng về Huế. Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã nổ và đã tàn phá Huế. Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chịu trách nhiệm.
Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngàynào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàigòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dắt súng lục bên hông, hăng hái đi lùng người này, bắt người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế.
Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc (*) một sinh viên trẻ trung, hăng hái.
Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loạt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử.
Cậu bạn của Đắc,tên Mậu Tý, giơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc :
- Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm… Hồ chủ tịch muôn năm.
Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ.
Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có từng đoàn người, hàng trăm người, cha có, sư có, già có, con trẻ có, mỗi người cầm một lá cờ trắng để ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào, đi thất thểu trong một thành phố đầy lửa cháy. Cứ như thế chạy ngược chạy xuôi, cho đến khi gục ngã gần hết.
Cũng chính trong thờiđại chúng ta, ngày thứ hai mươi mấy trong cơn hấp hối của Huế, đã có một con chó nhỏ kẹt giữa hai lằn đạn, chạy ra sủa bâng quơ ở bên bờ sông Bến Ngự. Con chó thành mục tiêu đùa giỡn cho những mũi súng hờm sẳn từ bên kia sông. Họ bắn cho con vật khốn khổ sợ hãi rơi xuống sông. Rồi lại bắn vào những bờ sông mà con chó nhỏ đang lóp ngóp bơi vào. Những phát súng đùa cợt không có tình bắn chết con chó nhỏ, mà chỉ có trêu chọc cho con chó chới với giữa giòng nước, để có chuyện đùa chơi với máu lửa. Thành phố Huế, và có lẽ cả quê
hương khốn khổ của chúng ta nữa, có khác gì thân phận của con chó nhỏ đã chới với giữa giòng nước ấy. Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương nữa.
Gần hai năm đã qua, hôm nay, nhân ngày giỗ thứ hai của biến cố tàn phá Huế sắp trở lại, tôi xin viết và xin gửi tới người đọc tập giải khăn sô cho Huế này như một bó nhang đèn góp giỗ.
Xin mời bạn, chúng ta cùng thắp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế.”
Tôi mượn lời trong tựa nhỏ Viết Để Chịu Tội nơi đầu trang cuốn hồi ký Giải Khăn Sô Cho Huế của nhà văn Nhã Ca xuất bản tại Saigon năm xưa mở đầu cho loạt bài “Nhang Đèn Góp Giỗ” vì mặc dầu đã hơn 40 năm qua nhưng không thể nào bỏ mặc những cái chết oan khuất do chính Việt Cọng giết hại mà không nhắc lại hay viết tiếp.
Trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Huế là thành phố bị thiệt hại nặng nhất về nhân mạng cũng như vật chất vì bị VC chiếm đóng lâu dài nhất. Riêng người Huế sở dĩ bị tàn sát dã man, theo một số nhân chứng, là do VC được chỉ điểm bởi một số nằm vùng địa phương vì thù oán nhau mà trả thù, rồi lại được tự do đi lại trong
thành phố nên tự do hành động, nhất là trong khoảng từ mồng hai tới mồng bốn, tha hồ đi từng nhà, lôi từng người ra bắn giết theo ý muốn. Cũng trong tờ Time được đăng lớn: The Massacre Of Hue. 5 tháng trước ngày tết Mậu Thân, cộng sản đã lập hai danh sách: một danh sách gồm 200 cơ sở chính quyền, ngay cả căn nhà vợ lẽ hay tình nhân của ông cảnh sát trưởng. Danh sách thứ hai gồm tên những người được coi là thành phần phản cách mạng liên hệ đến chính quyền Sàigòn như sĩ quan, công chức, trí thức và những tu sĩ không hợp tác với Cộng Sản. Phóng viên Don Oberdorfer của tờ Washington Post sau ba lần ra điều tra cũng xác nhận Cộng Sản có sẵn sổ đen, đến từng nhà nạn nhân để bắt đi và giết chết khoảng 5000 người.
Cũng theo Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một bài phỏng vấn của Thụy Khuê, đăng lại trên Chuyển Luân. Ông cho rằng có 3 thành phần người bị sát hại: một, trong những người bị sát hại là do hành động trừng phạt của quân Giải Phóng dành cho những người thực sự có tội.
Câu trả lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến người ta ngỡ ngàng, khinh bỉ. Ông Nguyễn văn Lục đã lớn tiếng hỏi:
“ Sự trừng phạt của quân giải phóng dành cho những người thực sự có tội hiểu ngầm là họ đáng tội chết lắm? Vậy họ là ai? Có thể nào nói rõ hơn những người có tội là những sĩ quan quân đội VNCH về nghỉ phép, những công chức, những vị tu hành?
Thực sự có tội có phải là Stephen Miller trốn nơi nhà một người bạn Việt Nam. Ông đã bị hành quyết ở một thửa ruộng đằng sau một chủng viện của Thiên Chúa Giáo.
Thực sự có tội có phải là Bác sĩ Dr. Horst Gunther Krainick, giáo sư y khoa Huế bị bắt làm tù binh cùng với vợ và hai con. Discher và Alterkoster. Tất cả 6 người đều bị dẫn về chùa Từ Đàm sau đó bị thảm sát và vùi nông ở một cái hố. Mặc dầu là người Pháp, hai vị tu sĩ thừa sai dòng Bénédictins, một bị giết, một bị chôn sống. Cũng như thế, thực sự có tội có phải là LM Bửu Đồng cũng bị thảm sát, mặc dầu có cảm tình với Cộng Sản. Chỗ khác, 5 sĩ quan VNCH bị bắn tại một sân vận động sau khi bị bắt. Rồi đến lượt ông Phó tỉnh trưởng Hành Chánh Thừa Thiên Trần Đình Phương tại vệ đường số 3, đường Nguyễn Hoàng? Thực sự có tội có phải là gia đình ông giáo sư Trần Điền?
Hay thực sự có tội là ông Ngô Tố 67 tuổi suốt đời khoan hoà, sống tại làng Thế Lại Thượng được kể tiếp ra đây?


ÔNG NGÔ TỐ ( 1901 – 1968 ):
Ông Ngô Tố sinh năm 1901 là con trai thứ ba của cụ Thượng thư Bộ hình Ngô Úy Tri sinh sống tại làng Thế Lại thượng. Ông Ngô Tố cũng chính là chú ruột của tướng Ngô Dzu, Tư lịnh vùng II chiến thuật. Theo con gái của ông là bà Ngô thị Kim Chi hiện đang sống tại thành phố Lasing thuộc tiểu bang Michigan kể: Chiếm Huế xong, Việt Cọng đi từng nhà truy lùng những thành phần họ đã ghi trong sổ bìa đen. Vào chiều ngày 21 tháng Giêng, khoảng 2 giờ trưa, ông Ngô Tố đang quét dọn ngoài sân thì một thanh niên độ tuổi trung học tên Vàng là con cháu trong làng đến mời nói
Mặt trận Liên Minh mời ông đi họp. Nghe tên Mặt trận Liên Minh mời cả nhà biết tai họa đến rồi nên hoảng kinh không nén được sợ hãi bèn khóc oà. Riêng ông ngoại mấy cháu sau phút giây bàng hoàng, sau đó ông trấn tĩnh kêu các con lấy thêm áo ông mặc vì bên ngoài trời lạnh như cắt, xong lủi thủi đi theo hắn lên nhà Cảnh Sơn là nơi mặt trận đặt trụ sở. Chị Kim Chi nghẹn ngào “ Ông ngoại mấy cháu bị đưa đi rồi, mặc dù cả nhà rối bấn lên vì biết số phận ông sẽ bi thảm giống như hàng ngàn người dân bị bắt trong vài tuần lễ trước đó không hy vọng trở về nhưng vẫn nhớ ra
một điều thiết thực lục soạn cái gì đó đưa cho ông ngoại cháu mang trong mình để làm tin, làm dấu, lỡ có gì sau này dễ nhận ra xác! Mạ tôi run rẩy lấy xâu chuổi đeo cổ bằng ốc được xỏ bằng giây nhợi rồi sai tôi chạy theo đeo cho được vào cổ ông.
Ở bên cạnh ông ngoại mấy cháu tới giờ phút cuối cùng là cậu em Ngô Ngọc Tuyền.
Đến khoảng 8 giờ tối thì thằng Bẻo, trưởng ban ám sát người cùng làng dẫn mấy người bị bắt khác cùng ông ngoại mấy cháu đi. Lúc dắt đi ngang nhà thấy vợ con đứng lúp xúp trước cửa, ông ngoại mấy cháu dừng lại vòng tay trước ngực như chào từ giã những người thân yêu rồi nói với thằng Bẻo : “Ông có bắn tui thì bắn tại đây, tui muốn chết thấy mặt vợ con tui …” Thằng Bẻo liền trả lời: “ Tui đưa cậu Ấm lên Phú Thứ học tập thôi, liên minh có giết ai mô mà nói rứa”.
Nói xong thằng Bẻo lôi họ đi về hướng Phú Thứ.
Đêm đó là đêm dài nhất, dài vô tận. Sáng tờ mờ cả nhà tức tốc lén lút túa nhau đi tìm nhưng không tìm thấy tung tích mấy người bị bắt hôm qua để rồi tức tưởi nhận ra: Tất cả đã bị giết!
“ Biết cha mình già cả lại vô tội, bị đem đi giết thật đau đớn khôn cùng, nên suốt bao năm sau đó tôi cứ tự hỏi trong tức tối ông ngoại mấy cháu có tội tình chi mà chết đau đớn như ri!”
Vài hôm sau tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân vô giải cứu bảo vệ dân chúng và đưa tất cả di tản xuống Bao Vinh. Gia đình ông Ngô Tố tạm cư ngoài Đà Nẵng, chỉ riêng có cô con gái lớn đang mang bầu gần sanh nhất định ở lại để theo đoàn người lặn lội kiếm cho được xác cha của mình. Toán kiếm xác tìm được một hầm tại Phú Thứ chắc khoảng gần 1,000 người. Khi khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống. Sau này môt nhân chứng cho biết: Họ được lệnh đập đầu bằng
đầu cuốc, từ phía lưỡi vào. Quan trọng nhất là, theo nhân chứng: người này phải đập người kia. Cứ 10 người bị cột vào giây điện thoại và đều bị đập vỡ đầu từ phía sau.”…
Cuối cùng những người sống quanh chùa Vàng cho biết thời gian đó túi túi thường có tiếng la thét đau đớn. Họ quật lên tìm thấy xác ông Ngô Tố bị đập đầu chôn chung với 3 chú cháu Hy, Vĩnh, Thảo, ông thợ bạc…Toàn là những người vô tội cùng làng. Có ông Tổng Đệ bất mãn bỏ Mặt Trận bị giết chung.
Ông Ngô Tố bị giết. Hàng ngàn người dân Huế bị giết oan ức như… tại vùng Gia Hội, có một chị tên Tuý. Chị là một sinh viên, khi Việt Cọng đến tìm anh của chị, không có nên bắt chị thay thế. Chị Tuý bị bắn và chôn tại cồn Gia Hội. Còn tại Vỹ Dạ, có chị tên Hương Sen. Hương Sen có nhiều anh tham gia quân đội. Khi vào bắt thì không có các anh của chị nên họ bắt chị ra hành quyết tại chỗ.
Sự man rợ tàn bạo bất nhân của bọn Việt Cộng đã có đầy đủ những bằng chứng khiến ai nấy nhớ lại cũng đều phẩn uất. Bây giờ đã đến lúc những người con Huế đồng dõng dạc: Này, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan …Những người dân đó có tội gì? Bà con thân nhân tau có tội gì mà lũ bây giết họ một cách dã man như vậy?
Hãy nói, viết, lên sự thật. Những sự thật như những nén nhang, ngọn đèn góp giỗ cho những oan hồn của Huế.
Tạm kết bài này, mời quý vị nghe lại Duy Khánh và xem lại hình ảnh Mậu Thân, để khóc với Huế, với dân Huế.
http://www.youtube.com/watch?v=wOl4k-5Gz6o
thụyvi
( Hầm Nắng, những ngày đón Tết Nhâm Thìn )
(*) Đắc, theo bà Nhã Ca đó là tên của Nguyễn Đắc Xuân. Nguyễn Đắc Xuân từng tổ chức đoàn “Phật Tử Quyết Tử” quậy nát Huế, sau đó trốn theo VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội “Công tác thanh niên” và khuyến dụ các quân nhân VNCH bị kẹt, để lập cái gọi là đoàn nghĩa binh.. Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa, trái lại bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang Cá, Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến Tàu, Phú Bài..
(**) Hiện có một số lớn nạn nhân sống sót sau thảm kịch Mậu Thân Huế 1968, đã quả quyết thủ phạm chính cuộc tàn sát dã man lúc đó là những thành phần trong cái mặt trận Liên Minh Dân Chủ Hoà Bình do Hà Nội dựng lên tại Huế vào ngày mồng ba tết Mậu Thân (1-2-1968) gồm Lê Văn Hảo, Thích Đôn Hậu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đóa, Đào Thị Xuân Yến,
Hoàng Phương Thảo..
(***) Những vị nào có thân nhân bị chết oan khiên xin liên lạc với thụyvi: ( 616 ) 254-7080


NHANG ĐÈN GÓP GIỖ ( Bài 2 )

. thụyvi

Một nén nhang đốt lên cho oan hồn của chàng sinh viên đang học năm thứ 2 ban Khoa Học tên Lê Văn Thuyết ( con trai duy nhất của ông Lê văn Lý và bà Lê thị Lựu) bị giết tại Khe Đá Mài sau khi đang trốn trong nhà thờ Phủ Cam. Theo ông N. Á.
( Chicago ) kể lại Thuyết là con trai duy nhất của ông Lê văn Lý ( bị VM giết năm 1947 ) và bà Lê thị Lựu ở làng Phủ Cam, Huế. Lúc sinh thời Thuyết là một đứa con rất hiếu thảo và học rất giỏi. Ngay khi VC đột nhập Huế, Thuyết và mẹ cùng đoàn người vào trốn trong nhà thờ Phủ Cam. Sau đó với sự chỉ huy của Nguyễn Đắc Xuân, họ lục lạo và chia dân chúng thành 3 tốp: Ông già bà cả thì cho về. Sinh viên học sinh, thường dân đưa lên giết tại Khe Đá Mài. Quân nhân công chức thì bắn ngay sau chùa Từ Đàm.
Bà mẹ của Lê văn Thuyết hiện còn sống tại Saigon.
Bài này xin được làm bó nhang thứ 2 góp giỗ cho những cái chết oan ức kinh hoàng trong chiến dịch thảm sát của Việt Cọng tại Huế 1968 có tên trong bài tường thuật của Elje Vannema dưới đây:
“ Mới sáng tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm: công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên con cái nữa. Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang trách nhiệm mọi mặt về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người đại diện phải lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông
người, trừ khi được kêu đi dự mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin đồn đãi...
Ngày hôm sau, du kích và nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có tên trong danh sách viết tay nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Một anh cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa với sự hiện diện của một người Bắc Việt và hai sinh viên khác. Hai sinh viên này chúng tôi biết... Hoàng Phủ Ngọc Tường; Các phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây.Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Ðắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Ðọc và Nguyễn Thị Ðoan Trinh điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc.Sau hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai. Nguyễn Ðắc Xuân bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mậu Tý, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm.Ngày thứ bốn, vì không tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người chủ gia đình bị bắn tức khắc.
Dưới áp lực khủng bố gia tăng nhiều người bỏ trốn, nhưng ít kẻ thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo bè qua sông sang làng Ðập Ðá.
Thường bị bắn theo nhưng cố chèo.Những người nằm vùng xuất đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân.
Bộ đội Bắc Việt và quân chính quy Mặt Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm vùng địa phương lo việc chính trị, hành chính, bình định, tuyên truyền, và tiêu diệt kẻ thù. Ðám này bắt và giết người bất kể, nhiều khi chỉ vì hiềm thù cá nhân.
Cán bộ miền Bắc có mặt ở tòa án nhân dân xem ra ít nắm vững chuyện chính trị và đóng vai trò ít quan trọng trong các bản án.
Ðịa phương quyết định mọi chuyện. Trước khi lên danh sách, thường đám nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn việc ra lệnh thanh toán những ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng, thà giết lầm hơn bỏ sót, vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện.
Một cách hệ thống, công chức, quân nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng lãnh đạo và có thể gây trở ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy đều được đoái hoài.
Danh sách bất tận.Dân chúng tập trung ở nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai được đứng bên ngoài.
Phụ nữ và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Ðàn ông và thiếu niên từ 15 tuổi trở lên đứng.
Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập trung vào bệnh viện vì cộng sản sợ giao tranh có thể xảy ra ở đó. Dân lúc này còn sợ súng máy và hỏa tiễn trực thăng hơn quân chiếm đóng nên ngoan ngoãn làm theo lệnh.
Sau ba ngày, đàn bà con nít được lệnh ngồi, đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận diện, trước mặt hai cán bộ miền Bắc và hai bộ đội Mặt Trận.
Hai người nằm vùng này mới được xổ tù khi Việt cộng chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ cựu của Mặt Trận. Một số người, trẻ có già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa.
Nguyễn Ðắc Xuân vào bên trong nhà thờ. Đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa Từ Ðàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao.
Ðàn bà trẻ con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra đi có anh lính trẻ cộng hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này)
Ngày kế tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Ðàm đi về hướng Nam rồi bẻ hướng Ðông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó "Ta đi mô đây". Có tiếng phụ họa "Lên núi hay tới chỗ chết?".
Bộ đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi bên cạnh Lương bổng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên mình. "Bắt gió cho ông ta " tiếng ai đó vang lên... Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới.Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào. "Xin để tui đi, để tui ở lại đây", ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác. "Tui không đi xa hơn được nữa"."Ðứng dậy ".Ông già gượng dậy, cố thẳng người thêm
được vài bước rồi lại ngã. Người gác đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên. Làm thế để chắc ăn, không ai chứng kiến. Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá.
Vô vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người gác càng hối thúc. Rồi có tiếng hô "Dừng lại ". Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Ðám canh gác phía sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác... Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị quân
Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía lăng Ðồng Khánh.Sau một giờ đi họ lại được lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi. Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do quỷ ma nào cả mà do chính con người tạo ra.
Thoạt tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người lính trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt vọng. Hai người thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có kẻ đau, không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối sau lưng họ. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Hố đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước, người ta nói thế. Một tiếng nổ kèm với tiếng la vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây? Ða số họ là công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải bước vào lính như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên khắp thế giới đến tuổi khác.
Sau khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ đêm.
Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay.
Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát.
Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng. Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Ðám người khập khễnh lê lết xuyên qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam.
Khi họ xuống đồi, Lương lách người lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và chạy theo dòng nước hướng về phía Ðông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuất động bởi trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra thấy mình băng qua một con đường sắt. Từ đó tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong ngóng sớm thoát được vùng tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mải tới ngày 16 tháng 2 Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra...
Người ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mải tới trung tuần tháng 9.69 người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Ðá Mài, con suối chảy ra khe Ðại đổ vào sông Hương... Trong số 428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này...
Mồ Tập Thể được khám phá đầu tiên ở trường trung học quận Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác
trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ.Trong số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã bỏ vô bưng theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về bắt các sinh viên khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên được phép chọn hoặc vô bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và chôn tại trường.
Những sinh viên khác của Gia Hội không theo Mặt Trận cũng chịu chung số phận. Có hố vừa chôn được hai hoặc ba tuần; số còn lại rất mới. Những xác đầu tiên được lính Thủy Quân Lục Chiến Cộng Hòa khám phá ngày 26.02.1968.
Trong số nạn nhân có cô Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào không đoán được sẽ ghi lại đúng như tác giả đã ghi - Người dịch), 26 tuổi, rất xinh, bán hàng ở chợ, nhà tại đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị quân Mặt Trận, theo lời kể của chị/em cô, vào nhà bắt đi đưa vào trường điều tra ngày 22 tháng 2, rồi chẳng thấy trở về. Xác cô chân tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không thấy một vết thương nào. Xác cô nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai trong số đó có bà con với chị/em dâu cô.
Trong số các nạn nhân khác có bà góa Dương Thi Co, 55 tuổi, nghề bán guốc, 4 con.
Bị bắt tại nhà ngày 22.02, đưa vào trường Gia Hội và bắn chết. Xác bà được các con nhận diện ngày 26.02.
Người thứ ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự lớp huấn luyện ngày 14.02. Xác được gia đình phát hiện và nhận diện ngày 16.03, chung hố với hai nạn nhân khác trong khuôn viên trường.
Người thứ tư là Trần Ðình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị bắt ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02.
Người thứ năm Nguyễn Văn Dong, cảnh sát 42 tuổi, bị bắt ngày 17.02 ở nhà một người quen và bị chôn sống, tay trói tại trường Gia Hội. Tìm thấy xác ngày 26.02.
Người thứ sáu là Lê Văn Phú, 47 tuổi, cảnh sát. Bị bắt tại gia ngày 08.02. Vợ con van xin Mặt Trận cho phép chồng ở lại nhà, nhưng tối hôm đó bị hành quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy ngày 26.02, ở khuôn viên trường.
Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt trên đường lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị chôn sống.
Những xác khác tìm thấy gồm một đại úy cộng hòa, hai trung úy, ba trung sĩ và mấy viên chức hành chánh. Bốn xác người của Mặt Trận.
Vùng mồ lớn thứ hai được khám phá gồm 12 hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada,
thường gọi là Tăng Quang Tự.Vùng thứ ba tại Bãi Dâu với 3 hố, 26 xác.
Trong số nạn nhân ở Chùa có ông Phan Ban Soan, 60 tuổi, sinh tại Phú Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến Thành, có gia đình, 5 con. Ông Soan làm nghề thợ may, trước có tham gia vụ Phật giáo chống tổng thống Diệm. Năm 1961 bị bắt vì chống chính quyền, được thả năm 1967. Bị Việt cộng bắt đi tối 12.02 trên đường Chi Lăng, Gia Hội. Cộng sản phân công ông chôn xác chết và phân phối gạo. Xác ông tay bị trói, bị bắn xuyên đầu, dập cùng hố với 7 người khác.
Một người khác tìm thấy ở Chùa là ông Ðặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị bắt tại gia ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02.
Một người khác nữa là ông Ngô Thông, 66 tuổi, nhân viên hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08.02, xác dập chung với 10 người khác. Một số tử thi có vết thương,một số tay bị trói giật cánh khỉ bằng dây thép gai, và một số miệng bị nhét giẻ.
Lần đầu tiên nói chuyện với đồng bào trong vùng tôi tưởng chỉ có 16 xác ở Chùa và 3 xác khác ở Bãi Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố chôn. Tất cả ở đây chết vì bị trả thù. Một vài người là thành viên Mặt Trận nhưng bị giết vì muốn ở lại thành. Họ đều là dân Gia Hội.
Bốn tháng sau, tháng 08.68, tôi trở lại đây để tìm hiểu thêm uẩn khúc của những cái chết. Thân nhân các nạn nhân lẫn dân địa phương đều xác nhận những điểm trên.
Tiết lộ về "mồ chôn tập thể" đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày 28.02.68, khi phát ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm "ghê gớm ở Cồn Hến gồm 100 xác công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng". Cũng theo phát ngôn viên, "các nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ không được lành lặn".
Cồn Hến nằm giữa sông Hưân từ Gia Hội ra vùng cát Ðông Nam, vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính ơng. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị trí chiến lược cho việc tiến quân và rút ququyền xác nhận có 101 xác trong hầm.
Theo đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người bận thường phục.
Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ; họ xác nhận là không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết; một vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù.
Vùng chôn thật sự thứ tư nằm sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba người Việt làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹông Miller và ông Gompertz, nhân viên USOM, và xác một giáo sư trung học người Pháp bị giết vì lầm là người Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm ngày 09.02.
Xác hai người Mỹ và người Pháp được đưa về Ðà Nẵng.
Quận Tả Ngạn, vùng thứ năm, do một quân nhân người Úc phá ngày 10.03.68. Ba hầm rãnh với 21 tử thi, tất cả đều nam giới, tay bị trói, đạn bkhámắn xuyên đầu và cổ.
Một hầm khác, vùng thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về hướng Ðông, được khám phá ngày 14.03.68 do một cố vấn quân sự Mỹ cùng toán lính Việt đi kèm. Hai lăm xác, tất cả đều bị bắn vào đầu, tay trói giật cánh khủyu. Nhờ một cánh tay của một nạn nhân nhôi ra khỏi mặt đất mà hầm được khám phá.
Phía Nam Huế qua hoàng thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Ðức và Ðồng Khánh. Nơi đây là vùng chôn tập thể thứ bảy. Ðây đó trên dưới hai chục hầm, có cái giữa đất bằng, có cái dưới bụi cây, có cái bên bờ suối.
Bên cạnh hầm lớn, có những hố nhỏ chứa một, hai hoặc ba xác.
Hầm đầu tiên được khai quật ngày 19.03.68, nhưng mãi cho tới tháng 6.69 vẫn còn xác được tiếp tục phát hiện. Ban đầu còn dễ nhận dạng, vài xác mang quân phục, ngoài ra còn lại thường phục. Ðặc biệt ở đây không có xác phụ nữ và trẻ con. Càng về sau việc nhận diện trở nên khó khăn.
Dù vậy, cuối hè 1969, người ta cũng nhận diện được xác bố của ông thôn trưởng thôn Than Duong. Vì con trai vắng mặt nên cụ già bị bắt thay con. Về sau con đi tìm cha mãi không gặp. Xác cha, đạn xuyên đầu và ót, được tìm thấy tháng 6.69.
Cũng trên đường hướng Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác liệt trong thời gian cộng sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh quân chiếm đóng phía Nam thành phố rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện xây cách đây 26 năm, cách Huế 6 cây số hướng Nam, vào ngày 21.02.
Lúc đó Tu viện đang là nơi lánh nạn cho hơn 3000 người. Mặc cho các cha dòng van xin, cộng sản đã cho thần hỏa thiêu rụi tòa nhà chính trong vòng hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ sinh kế của nhà dòng cũng bị lửa đạn thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố và thủ bút quý thời vua chúa cũng chung số phận.
Cha Dom Romain Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính Việt cộng bắn vào vai lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu hết dân tỵ nạn. Một linh mục người Việt bị bắn vào chân.
Khi rút khỏi đóng gạch vụn Tu viện ngày 25.02, Cộng quân mang theo trên 200 người, trong đó 2 linh mục người Pháp, cha Urbain, 52 tuổi, và cha Guy, 48 tuổi và
một số tu sĩ linh mục, tập sinh và người giúp việc.
Những người này bị lọc bắt trong thời gian cộng quân chiếm Nhà dòng và được dẫn đi về hướng Nam. Ða số bọn họ kết liễu cuộc đời gần chỗ lăng các vua. Tới tháng 6.69, tổng cộng 203 xác được khai quật.
Trong số nạn nhân ở lăng Tự Ðức có Ðoan Xuan Tong, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06.02.68.
Xác em được thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19.03.68, chôn chung với năm người khác cùng làng.
Tại lăng Ðồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một hố với 10 người khác.
Một người Việt khai quật xác cho tôi hay tay linh mục bị trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm ngày 23.03.68 và sau đó được một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là tay cha Urbain có bị trói hay không.
Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp.
Vì thế nguyên tắc của đối phương là phải dấu nạn nhân thế nào để không bị khám phá, mà nếu có bị khám phá thì cũng không nhận diện được là ai.
Ngoài thi hài cha Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy trong một hầm riêng ngày 27.03.68 gần lăng Ðồng Khánh, với vết đạn ở đầu và cổ.
Vùng chôn thứ tám ở cầu An Ninh khám phá ngày 01.03 với 20 xác. Trong số tử thi có ông Trương Văn Triệu, trung sĩ lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5 con. Du kích cộng sản địa phương bắt ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông ẩn trốn. Bị trói và dẫn đi. Nhờ dân chúng gần đó cho hay Việt cộng có chôn xác người gần cầu nên vợ ông đã tìm được xác chồng sau đó.Xác ông Tran Hy, thuộc lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp cùng hầm với ông Trieu. Ông bị bắt ngày
20.02 khi đang trốn trong nhà một láng giềng. Tay bị trói cánh khuỷu, người không có vết thương nào.
Vùng chôn thứ chín ở cửa Ðông Ba, nơi xảy ra giao tranh lớn. Ðây chỉ có một hầm 7 người bị bắt tại gia và giết sau đó. Trong đó có ông Ton That Quyen, 42 tuổi. Có gia đình với 10 người con, bị bắt và dẫn đi hôm 08.02.68. Gia đình tìm được xác ông ngày 05.05.68.
Ðịa điểm thứ mười là trường tiểu học An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có cảnh sát Tran Trieu Tuc, 52 tuổi, có vợ 7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi ngày 05.02.68. Xác tìm được ngày 17.03.68 ở trường, mang vết thương ở đầu và cổ. Ba xác còn lại: một sinh viên, một quân nhân và một cảnh sát.
Ðịa điểm thứ mười một là trường Van Chi, một hầm 8 xác. Trong đó có anh Le Van Loang, thợ máy, 35 tuổi, có vợ 6 con. Theo lời chị Loang, anh bị bắt đi dự lớp huấn luyện ngày 06.02. Khi bị dẫn đi, chị và các cháu chạy theo van xin nhưng vô hiệu.
Họ ra lệnh mẹ con chị phải quay trở về. Xác anh được những gia đình đi tìm xác người thân tìm thấy ngày 10.03.68 gần trường. Một vài xác bận quân phục, 4 xác chắc chắn là thường dân, trong đó có một sinh viên.
Ðịa điểm thứ mười hai ở chợ Thông, cách nội thành 2 cây số về hướng Tây. Tìm được 102 xác. Trong đó có ông Nguyen Ty, 44 tuổi, thợ xây gạch, có vợ 6 con. Bị bắt ngày 02.02.68 và có lẽ bị giết ở chợ cùng với nhiều nạn nhân khác. Tìm được xác ngày 01.03, tay bị trói, một viên đạn từ ót bung ra cửa miệng. Nhiều người khác cũng bị bắn, tay trói. Có nhiều xác đàn bà nhưng không có trẻ con.
Ðịa điểm thứ mười ba là vùng lăng Gia Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương, cách thành phố khoảng 16 cây số hướng Nam và cách ÐànNam Giao cỡ 13 cây số Tây Nam. Gần 200 xác được tìmthấy dưới các đám cây vàbụi rậm, gồmhọc sinh, sinhviên,nhân viên hành chính, quân nhân và nhiều phụ nữ. 27 người thuộclàng lân cận. Sau khi an ninh tạm vãn hồi, các bà đi tìm chồng đã khám phá ra địa điểm này.
Lúc đầu, họ không dám đi quá xa. Nhưng hai ngày sau, 25.03.68, họ đụng vào một miếng đất mới đào trên triền một trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ nằm nơi đây, tay bị trói cánh khủy, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng. Có nhiều rãnh hầm nối nhau với nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành, những người khác từ các làng lân cận. Một số là sinh viên từ Huế về nhà ăn tết.
Ðịa điểm thứ mười bốn nằm ở giữa Chùa Tăng Quang và Tường Vân, 2,5 cây số Tây Nam Huế. Ở đó có xác 4 người Ðức, 3 bác sĩ và một bà vợ, tìm thấy ngày 02.04.68.Ðịa điểm mười lăm ở Ðông Gi, 16 cây số phía đông Huế trên đường ra bờ biển, tìm thấy ngày 01.04.68. 101 xác, đa số bị trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả đều nam giới,trong đó có15 sinh viên, nhiều quân nhân và nhân viên hành chính, già lẫn trẻ. Một vài xác không thể nhận diện được.Tới tháng 05.68, tổng cộng có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được tìm thấy.
Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính...
Ðầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được khám phá.
Ðiểm chôn thứ mười sáu: Ðầu tiên ở làng Vinh Thái. Ðịa điểm thứ hai ở làng Phú Lương. Ðịa điểm thứ ba ở làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả được tìm thấy trong khoảng từ tháng 01 tới tháng 08.69. Quận này với quận kế bên bị cộng sản chiếm nhiều năm và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài nhiều tháng. Mải tới đầu năm 1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng này...
Ba làng này cách thị xã Huế chừng 15 cây số về các hướng Ðông và Ðông Nam, cách bờ biển từ 3 tới 5 cây. Theo các viên chức địa phương trên 800 xác được tìm thấy trong các vùng trên trong vòng 6 tháng. Có hầm đào sâu, có hầm cạn. Nhiều xác chôn lâu rồi, quần áo đã mục... Trong số nạn nhân người ta nhận diện được16 học sinh trung học, theo học ở Huế nhưng về quê ăn tết. Cả nhân viên hành chính, đàn ông, đàn bà, trẻ em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói, đa số đều chôn cùng một
hố. Vùng làng Vinh Thái đào được 135 xác; làng Phú Lương 22; và làng Phú Xuân đợt đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375 xác. Dù thời gian qua lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ và đầu. Ða số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các làng lân cận mất tích
từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02.68. Trong số 357 xác có chaBửu Ðồng, một cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha Ðồng dấu được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8.11.69).
Các con cái yêu dấu:Ðây là bút tích cuối cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh Phêrô trên thuyền bão táp... (3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc của Cha ngày đầu xuân cho mọi công việc Tông đồ của Cha giữa chúng con, nhớ..
(hai chữ đọc không ra) khi sự sống của Cha sắp kết liễu theo ý chúa.Hãy mến Mẹ sốt sắng lần hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với Cha, xin Chúa tha tội cho Cha và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha được sống trong tin tưởng, kiên nhẫn, trong khắc khổ để kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và mọi người trong Mẹ Maria. Xin cầu nguyện cho Cha bình an sáng suốt và can đảm cùng mọi sự đau khổ tinh thần, thể xác và gởi mạng sống cho Chúa qua tay Ðức
Mẹ.Hẹn ngày tái ngộ trên nước Trời.Chúc lành cho chúng con.(Chữ ký Cha Ðồng)
Ðiểm chôn thứ mười bảy ở làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa, bên bờ sông Tả Trạch, một phụ lưu sông Hương phía Nam lăng Gia Long. 11 xác được tìm thấy giữa các lùm cây trong tháng 07.69. Chỉ có ba xác nhận diện được là người của làng bên cạnh. Tất cả đều mang vết thương cổ và đầu, dấu chỉ của sự hành quyết.
Ðiểm thứ mười tám ở Thúy Thạnh, quận Hương Thủy, tìm thấy tháng 04.69, và ở làng Vinh Hưng, quận Vinh Lộc, tìm thấy tháng 07.69. Cả hai làng nằm trong vùng bị cộng sản chiếm từ lâu... Trên 70 xác, nhiều xác không còn nhận diện được nữa, đa số là đàn ông, vài đàn bà và trẻ con. Họ được nhận diện là người của các làng lân cận và vài người có thể bị chết vì chiến cuộc bởi mình họ mang nhiều vết thương và xác không toàn vẹn. Các nạn nhân khác bị bắn ở cổ và đầu.
Ðiểm thứ mười chín tìm thấy vào tháng 09.69 ở Khe Ðá Mài, quận Nam Hòa, một con suối nhỏ chảy vào Khe Ðại, phụ lưu sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có xương đủ bộ, có xương nằm riêng, sọ nằm riêng; tất cả được nước suối mài trắng tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy địa điểm này. Nạn nhân có lẽ đã được chôn bên bờ suối trong mùa mưa và nước suối đã dần soi mòn đất để lộ xác ra, cũng có thể là nạn nhân bị vất xuống suối, chứng cớ là các mảnh quần áo được tìm thấy dọc bờ hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp nạn nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều này có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới đây
hoặc được mang tới đây sau khi bị bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong mùa suối khô, thì sự kiện xảy ra trong khoảng từ tháng 06 tới 10.Có lẽ để giữ bí mật khi rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn nhân tại đây. Theo luật thông thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, kẻ thù thường chôn cất xác đồng đội đàng hoàng.
Tuy nhiên cũng có thể đây là xương và sọ của lính Mặt Trận và Bắc Việt. Như vậy thì số phận nào cho những người Phú Cam bị mất tích?Nghiên cứu các phúc trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc lớn hoặc của máy bay B 52 nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn vào hạ tuần tháng 04.68, một địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả lại lập luận mang người bị chết vì bom B 52 băng qua vùng đất gập ghềnh để đưa về chôn ở suối này quả không vững. Ðường lên núi dễ
dàng hơn nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ thù bị thiệt hại nặng ở trận Lộc Sơn và, theo thói quen sẵn có, đã mang xác 500 đồng đội đi thì hẳn lộ trình phải là hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều, chứ làm sao mà chọn băng qua cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này.
Trong thời gian cuộc tấn công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài từ Huế qua Bến Ngự, cầu Nam Giao tới gần và trong Nhà dòng Thiên An. Nhưng đã không có tiếp tục đánh nhau lớn về mạn Nam, khi quân thù chọn đườn rút lui lên núi, hướng trái với Ðá Mài. Khe Ðá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam, bên ngoài vùng lăng tẩm; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân lai vảng. Khe chứa 500 sọ. Ðịa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia, xác của những người mang từ Huế
ra bị khám phá, mà nếu có khám phá thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận. Các sọ vỡ xương trán tất thảy cho thấy bị đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình...
Sau khi Ðá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin tức.Bên cạnh các hầm chôn tập thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi. Có khi cả gia đình bị tiêu diệt như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị bắn cùng vợ và 5 con tại nhà. Ông Ngô Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp chiếu bóng địa
phương và ông Phan Văn Tường, lao công, bị giết ngoài nhà ông với bốn đứa con...(ngưng trích )
Elje Vannema
(The Vietcong Massacre at Hue. Vintage Press, New York, 1976)
Trong cuộc chiến đang tiếp diễn hay đang lụi tàn, giết tù binh/tù nhân chiến tranh và thường dân là phạm vào tội ác chiến tranh.
Trong tất cả các hiệp ước quốc tế đều có chung một điều khoản như thế./.
. thụyvi
Qúy vị nào có thân nhân bị Việt Cọng thảm sát, xin gọi đến tôi,
thụyvi ( 616 ) 254 – 7080
Xin mượn tranh của họa sĩ Nguyễn Trung và Bội Trâm minh họa cho bài viết.
YOUTUBE MỚI: TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN MẬU THÂN TẠI HUẾ
LINKS:
Tuong niem nan nhan Mau Than tai Hue.wmv – YouTube.



http://www.youtube.com/watch?v=wOl4k-5Gz6o

dimanche 29 janvier 2012

Việt Nam bị tố cáo tiếp tay cho tệ nạn buôn người

Hòa Ái, thông tín viên RFA
2012-01-28

Ngày 24/1/2012, Ủy ban Ngoại giao Hạ Viện Hoa Kỳ tổ chức một buổi điều trần về những vấn đề vi phạm nhân quyền đang diễn ra ở Việt Nam.


Photo courtesy of machsong.org
Nữ công nhân Việt Nam lao động xuất khẩu ở Jordan phải được 
giải cứu khỏi sự đàn áp và bóc lột của chủ nhân công ty may tháng 2-2008.

Nội dung điều trần lần này bao gồm những vấn đề như: tệ nạn buôn người, đàn áp tôn giáo, tình trạng tra tấn và sử dụng bạo lực của công an, việc bắt bớ và giam giữ những người bất đồng chính kiến, các nhà dân chủ và những người muốn bày tỏ lòng yêu nước… Cô Vũ Phương Anh, một nạn nhân của nạn buôn người đã tố cáo với Quốc Hội Hoa Kỳ là chính phủ Việt Nam hỗ trợ cho tệ nạn này. Hòa Ái có cuộc trao đổi ngắn với cô Vũ Phương Anh sau buổi điều trần. Mời quý thính giả cùng nghe sau đây.



Xuất khẩu lao động

Vào ngày 24/1, cô Vũ Phương Anh - một nạn nhân của nạn buôn người đã tố cáo chính phủ Việt Nam hỗ trợ nạn buôn người này. Cô nói trước Quốc Hội Hoa Kỳ rằng cô cùng với 276 công nhân Việt Nam khác đã bị tấn công và làm việc như một nô lệ ở Jordan. Câu chuyện mà cô chia sẻ bắt đầu từ năm 2008 khi cô Phương Anh được chính quyền địa phương thông báo về chương trình xuất khẩu lao động cho những người thuộc diện xóa đói giảm nghèo. Cô được hứa hẹn làm việc trong một công ty may mặc ở đất nước Jordan xa lạ với mức lương 300 đô la/tháng và làm việc 8 tiếng đồng hồ/ngày trong 3 năm. Cô đã được hướng dẫn cầm cố sổ đỏ ở Ngân Hàng để vay mượn số tiền 2000 đô la làm thủ tục đi xuất khẩu lao động. Sau khi đặt chân đến Jordan, Phương Anh cùng với 276 công nhân Việt Nam khác đã bị công ty xuất khẩu lao động lấy hết giấy tờ tùy thân và phải làm việc 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày và nhận được đồng lương là 1 đô la cho một ngày làm việc.

Rồi đem con bỏ chợ


lao-dong-jordan-250.jpg
Một nữ công nhân Việt bị đánh bất tỉnh tại Jordan hôm 20/02/08. Photo courtesy of CAMSA.

Những người công nhân đáng thương này đã tìm mọi cách để cầu cứu với đại diện của công ty cũng như là Bộ Lao Động và Thương Binh Xã Hội Việt Nam, nhưng tất cả đều vô vọng. Cuối cùng họ phải đình công và đã bị bỏ đói. Cô Phương Anh cho biết:

“Công ty đã thuê bảo vệ và thuê cảnh sát Jordan vào đánh những người bạn của Phương Anh, trong đó có cả Phương Anh. Bị bỏ đói, không đi làm thì công ty cắt khẩu phần ăn. Rồi sau một trận đòn dã man, xin được nói thêm để quý vị hiểu, có chị Ngọc đã chết. Còn biết bao nhiêu người bệnh tật ốm đau như vậy nữa mà cảnh sát cũng không tha. Ai đã dẫn những cảnh sát đó vào? Đó là cô Vũ Thu Hà-là đại diện của công ty ở Việt Nam. Cô Vũ Thu Hà đã dẫn những cảnh sát Jordan cũng như là những bảo vệ vào phòng đánh những người phụ nữ Việt Nam.”

Cô Phương Anh nói với Ủy ban Ngoại giao Hạ Viện Hoa Kỳ rằng cô vẫn bị những ám ảnh về những gì đã xảy ra và tiếp tục bị đe dọa dù cô đã trốn thoát và đã được định cư ở Hoa Kỳ.

“Bình thường, mẹ Phương Anh ở nhà đã liên lụy đến bản thân rồi. Cũng như Phương Anh ở bên này, có biết bao nhiêu cuộc điện thoại, bao nhiêu vụ đụng xe bỏ chạy. Như vậy mọi người đều biết là ai rồi. Bởi vì Đảng Cộng sản Việt Nam dám ra ánh sáng để nói chuyện với Phương Anh và tất cả mọi người thì đâu có phải là Cộng Sản nữa. Bởi vì Cộng Sản chỉ nói và hứa những điều họ không làm được. Còn những điều họ làm trong bóng tối, theo Phương Anh nghĩ họ có thể làm tất cả mọi thứ.”

Công ty đã thuê bảo vệ và thuê cảnh sát Jordan vào đánh những người bạn của Phương Anh, trong đó có cả Phương Anh.
Vũ Phương Anh

Dù biết rằng việc ra làm nhân chứng trước Quốc Hội Hoa Kỳ có thể bị nguy hiểm cho bản thân và gia đình, nhưng Phương Anh quyết mang ra ánh sáng về tệ nạn buôn người có sự hỗ trợ của chính phủ Việt Nam với hy vọng sẽ không còn một ai khác trở thành nạn nhân buôn người dưới hình thức xuất khẩu lao động giống như cô. Phương Anh chia sẻ:

“Thật ra từ lúc tị nạn ở Thái Lan, Phương Anh có điều ước. Và Phương Anh lấy điều ước đó để làm động lực sống và vượt qua thời gian dài ở Thái Lan nguy hiểm. Bởi vì tị nạn ở nơi này rất là nguy hiểm và sống trong một sự chờ đợi thấp thỏm. Phương Anh chỉ nghĩ là làm thế nào để cố gắng vượt qua được cảnh tị nạn và đi qua được đất nước thứ ba. Và khi bước chân đến nước thứ ba rồi thì Phương anh nghĩ ước gì được bước vào Quốc Hội Hoa Kỳ một lần để tường trình. Và ước muốn này, Phương Anh vừa thực hiện được.

Khi tới Quốc Hội Hoa Kỳ, cảm xúc dâng trào rất là nhiều vì niềm mơ ước, mong muốn của mình đã trở thành hiện thực. Mơ ước đấy của bản thân Phương Anh là một chuyện. Ra ngoài được đó rồi, Phương Anh nghĩ tới những người đấu tranh dân chủ ở trong nước. Phương Anh muốn đại diện cho các bạn của mình, những người lao động nói riêng, cũng như là người dân Việt Nam của mình cũng như là các tù nhân chính trị nói chung để mà lên tiếng. Bởi vì Phương Anh cũng là một nạn nhân. Phương Anh ra Quốc Hội để làm chứng là Cộng Sản Việt Nam buôn bán lao động cũng như là bắt những người dân vô tội, những người dân yêu nước.”

chris-smith-phuong-anh-200.jpg
DB Chris Smith và Vũ Phương Anh tại Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 24/01/12 (ảnh CAMSA).

Phương Anh có một cảm xúc khó tả khi bước chân vào Quốc Hội Hoa Kỳ. Cảm xúc này thật sự vẫn đọng lại sau buổi điều trần và cho đến khi cô về đến nhà. Đây là tâm tình của Phương Anh:

“Rất là khó tả khi bước chân vào Quốc Hội. Một điều rất là quan trọng nữa, khi ở Quốc Hội về, Phương Anh vẫn cứ nằm mà không sao ngủ được với lý do là những dân biểu đó là người Mỹ, không phải là người Việt, một người ngoại quốc, vậy mà khi Phương Anh nói chuyện, cảm xúc hiện ra rõ trước mặt của họ.

Họ rất đồng cảm khi Phương Anh nói chuyện. Phương Anh cảm thấy rất là kính phục họ. Nhưng đối ngược lại, với chính quyền Việt Nam thì sao? Lúc Phương Anh cùng bạn còn kẹt lại ở Jordan, phái đoàn Việt Nam qua đã không có một lời hỏi thăm. Trong khi đó các bạn của Phương Anh bị bỏ đói bao nhiêu ngày, bị ốm, họ không được một lời hỏi thăm mà còn bị ép bắt buộc phải đi làm.

Họ không một lời hỏi thăm, thuốc than hay một lời động viên nào cả. Khác hoàn toàn, mà đấy là người đại diện cho chính phủ Việt Nam của mình, cho đất nước của mình. Mình cũng là người Việt Nam, là con dân của họ, mà họ lại không để ý. Trong khi đó, là người Mỹ mà họ có tình thương đối với Phương Anh cũng như nghe Phương Anh kể về câu chuyện lao động của Phương Anh cũng như là người dân Việt Nam của mình đang sống khổ như vậy.”

Họ không một lời hỏi thăm, thuốc than hay một lời động viên nào cả. Khác hoàn toàn, mà đấy là người đại diện cho chính phủ Việt Nam của mình, cho đất nước của mình.
Vũ Phương Anh

Trong cuộc trao đổi với đài RFA lần này, Phương Anh mong muốn lời chia sẻ tâm tình của cô được quý thính giả khắp nơi lắng nghe. Cô nói:

“Phương Anh muốn nhắn nhủ tới những người dân, những người thật sự là những các bạn lao động đang ở xa xứ, cũng như các bạn đang lao động đang ở Malaysia, Đài Loan và những các bạn đang chuẩn bị làm thủ tục để đi lao động hãy theo dõi và phải tìm kiếm một nơi thật sự là tin cậy. Phương Anh không biết nói lời nào hơn vì lời người ta nói nhưng khi sang đến nơi không đúng như hứa hẹn đâu.

Mong mọi người hãy tỉnh táo trước khi đi lao động, đừng dẫm theo vết xe đổ của Phương Anh nữa. Và thêm một lời nhắn nhủ với những người có thân nhân của mình đang ở trong tù chính trị, những người đứng lên yêu nước để giữ đất nước của mình bị nhà nước cũng như công an bắt bỏ tù, chỉ mong mọi người hãy cố gắng. Sự thật bao giờ cũng là sự thật. Và những gì phải trả thì ắt cũng phải trả thôi.”

Qua những lời nhắn nhủ của Phương Anh trong câu chuyện đã xảy ra cho chính cô và 276 người khác ở Jordan, cô mong rằng những người dân ở trong nước sẽ không một ai phải trở thành nạn nhân của nạn buôn người qua hình thức xuất khẩu lao động, “đem con bỏ chợ” và bị bỏ mặc sống chết nơi đất lạ quê người về sau.


Cưởng chế đất Ba Đình

Thông tin này được cung cấp để mọi người cùng nhau hiểu rõ hơn về dự án xây nhà ở bán tại 67 Văn cao, Ba Đình, Hà Nội và nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng của người dân bị mất đất đối với UBND quận Ba Đình. Vụ việc này là một trong những vụ việc gần đây người dân quận Ba Đình bức xúc với UBND quận Ba Đình.
Người dân cho biết, sau vụ cưỡng chế lần cuối cùng cho dự án ngày 28/9/2011, người dân đã tiếp xúc trực tiếp với Ban tiếp dân của Thanh tra TP Hà Nội và được trả lời như sau
- Thứ 1, dự án có quyết định thu hồi và giao đất từ năm 1998, có thời hạn thực hiện là 6 tháng kể từ ngày ra quyết định, nhưng đến nay là 13 năm mà không có bất cứ văn bản nào ra hạn thêm mà vẫn thực hiện là SAI
- thứ 2, dự án được cấp đất để xây nhà ở bán mà không thỏa thuận đền bù với dân; năm 2011 mới thực hiện chính sách đền bù từ năm 2000 với đơn giá đất đền bù là gần 2.200.000 đ.m2 là quá thấp so với mặt bằng chung tại quận Ba Đình. Trong khi đó dự án khu đô thị mới tại Chương Mỹ thực hiện hỗ trợ ổn định công việc là 60m2 đất tái định cư và thêm 54 triệu đồng hỗ trợ phá dỡ công trình khi thu hồi 110m2 đất ruộng của dân.
- thứ 3, DỰ ÁN XÂY NHÀ Ở BÁN nhưng thực hiện chính sách đền bù theo nghị định 22 dành cho việc bồi thường thu hồi đất cho các công trình quốc gia, an ninh quốc phòng, an sinh xã hội là SAI, dù công ty đó là của nhà nước hay không phải nhà nước.
- thứ 4, DỰ ÁN XÂY NHÀ Ở BÁN không thể biến thành DỰ ÁN NHÀ Ở CÔNG VỤ sau 10 năm kiện cáo chỉ bằng một văn bản xin nhà công vụ được. Vì theo quy định của Luật đất đai thì NHÀ CÔNG VỤ PHẢI ĐƯỢC THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ CHO PHÉP và phải dùng tiền từ ngân sách xây nhà công vụ
- Thứ 5, BÁO CÁO GIỚI THIỆU ĐẤT CHO DỰ ÁN nói là đất canh tác và một phần để hoang hóa, nhưng trong các quyết định đền bù gửi cho dân trong tháng 10/2011 lại ghi là ĐẤT DO ÔNG CHA ĐỂ LẠI. NHƯ VẬY CÓ THỂ CÓ SỰ KHUẤT TẤT NGAY TỪ ĐẦU DỰ ÁN.
Sau ngày cưỡng chế cuối cùng ngày 28/9/2011 để thu hồi đất cho dự án, Thành ủy Hà Nội theo đơn thư của người dân đã xuống làm việc với UBND phường Liễu Giai, UBND quận Ba Đình và công an quận Ba Đình, nhưng cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có kết luận gì.
NGƯỜI DÂN BỊ MẤT ĐẤT Ở CHO DỰ ÁN XÂY NHÀ Ở BÁN ĐANG RẤT TRÔNG CHỜ SỰ PHÁN QUYẾT SÁNG SUỐT CỦA THÀNH ỦY HÀ NỘI VÀ MONG CHO VIỆC KIỆN CÁO SUỐT 13 NĂM TRỜI CÓ ĐƯỢC MỘT KẾT QUẢ CÓ LỢI CHO DÂN, CHO NƯỚC.


Công An Cướp Đất Dân Oan Tại Nha Trang 




Nhửng vụ cưởng chế đất khấp nơi
http://namdigidoc.blogspot.com/2012/01/them-mot-vu-cuong-che-at-tai-huyen-bu.html
http://namdigidoc.blogspot.com/2012/01/trong-video-la-nguoi-dan-bi-cuong-che.html
http://namdigidoc.blogspot.com/2012/01/video-cuong-che-mat-bang-thon-la-duong.html

vendredi 27 janvier 2012

Còn Nhiều Vụ Tiên Lãng Nữa
19/01/2012


Vi Anh

Theo: VietBao


“Vụ gia đình Kỹ sư Nông Nghiệp Đòan văn Vươn dùng vũ khí tự chế chống công an, bộ đội đến cướp đất của người dân, mà nhà cầm quyền gọi là “cưỡng chế thu hồi” không phải là vụ đầu hay vụ chót trong hai chế độ CS lớn còn sót lại ở Á châu: Trung Quốc CS và Việt Nam Cộng CS.”


“Tức nước phải bể bờ”, đất nước ông bà VN từ xưa đã nói lên chân lý ấy. Vụ Kỹ sư Nông Nghiệp Đoàn Văn Vươn đã cùng gia đình dùng mìn và súng tự chế chống trả, làm 6 công an và bộ đội bị trọng thương khi hàng 100 công an, bộ đội tấn công cưỡng chế, cưỡng chiếm đất đai của Anh, do Anh và gia đình tạo lập. Kỹ sư Đoàn Văn Vươn là một người nông dân có ăn học, đậu kỹ sư nông nghiệp. Biến cố đời Anh xảy ra năm Anh 49 tuổi, vào cái tuổi già dặn khôn ngoan, sức khỏe sung mãn nhứt của đời người. Anh không hành động theo cảm tính nhứt thời bị kích động. Anh hành động có tính tóan, chuẩn bị phương tiện bảo vệ quyên lợi của mình sau nhiểu ngày Đảng Nhà Nước và nhà cầm quyền địa phương đưa Anh vào con đường cùng, phải chiến đấu tự vệ hay là chết. Con ong, con kiến, con trùng, con dế mà dày xéo nó, có chết nó cũng phản ứng sinh tồn, chống trả.

Phương chi Kỹ sư Đòan văn Vươn đã cùng gia đình đem bàn tay, khối óc và trái tim, gần cả cuộc đời ra lấn, lấp biển làm thành khu đất ven bồi. Mồ hôi, nước mắt, công sức và thời gian của Anh và gia đình dùng để biến biển thành khu đất sản xuất được – quá nhiều. Khu đất là cả cuộc đời, cả tương lai sự nghiệp của Anh và gia đình Anh. Công lao của Anh và gia đình trong sự nghiệp lấn, lấp biển làm thành tài nguyên sản xuất làm giàu cho quốc gia dân tộc VN – công lao này rất lớn.

Không có Đảng Nhà Nước nào, không có chế độ nào, nhà cầm quyền nào, không có đạo lý, pháp lý nào,, nhơn danh cái gì, viện lẽ này hay lý nọ để có thể lấy đất này của Anh và gia đình Anh được. Chỉ có Anh, người thừa kế mới có quyền mua bán, chuyển nhượng quyền sỡ hữu mảnh đất này.

Nếu nhà cầm quyền dùng cách này hay cách nọ, viện lẽ này hay lẽ nọ gọi là trưng dụng công ích trả rẻ mạt, hay trưng thu, thu hồi bằng biện pháp hành chánh hay pháp lý độc tài, thì nhà cầm quyền đó là những “cướp ngày là quan”, như đất nước ông bà VN từ xưa đã lên án.

Phản ứng của Kỹ sư Đòan văn Vươn là phản ứng rất người và chính đáng. Trẻ em còn bú kia mà bất thần giựt núm vú ra, em bé còn khóc ré lên. Huống hồ Anh Vươn đã khiếu kiện không biết bao nhiêu lần mà chẳng ai giải quyết việc trưng thu bất hợp pháp đất đai ven bồi do Anh tạo lập. Rồi đùng một cái Đảng Nhà Nước địa phương cho hàng trăm công an “cưõng hành thu hồi” tài sản mồ hôi nước mắt của Anh, thực tế là cưỡng chiếm như cướp giựt vậy. Anh Đòan văn Vươn là con người đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi công sức lấn, lấp biển thành miếng đất ấy làm sao chịu nổi hành động bất lương đó.

Vụ gia đình Kỹ sư Nông Nghiệp Đòan văn Vươn dùng vũ khí tự chế chống công an, bộ đội đến cướp đất của người dân, mà nhà cầm quyền gọi là “cưỡng chế thu hồi” không phải là vụ đầu hay vụ chót trong hai chế độ CS lớn còn sót lại ở Á châu: Trung Quốc CS và Việt Nam Cộng CS.

Bên TC giáp ranh với VNCS, trước vụ Tiên Lãng ở Hải Phòng với trường hợp Kỹ sư Đòan văn Vươn, ngày 21 tháng 12 năm 2011, 13 ngàn dân làng Ô Khảm phẩn uất, nổi dậy chống nhà cầm quyền cướp đất của dân. Tất cả cán bộ đảng viên phải chạy trốn. Công an tỉnh, huyện trang bị dùi cui, roi điện, sung ngắn súng dài, phải “chi viện”; lực lương đông hơn số dân nổi dậy. Công an bao vây làng, cắt đứt internet, cấm trong ra, ngòai vào nhưng không làm nao núng những nông dân đã mất đất mất ruộng. Nhưng người dân không một tấc sắt trong tay, không còn ruộng để cày, không còn rẫy để làm, quyết tử thủ, lấy máu, nước mắt, mồ hôi, mạng sống ra để đấu tranh chống CS, đòi công lý, nhân quyền, dân quyền và tài sản của mình. Một thời gian sau tử thủ, dân oan Ô Khảm đã thắng.

Theo Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội của TC, trong 20 năm gần đây, khoảng 6,7 triệu mẫu ruộng đất bị trưng thu. Do sự chênh lệch giữa giá thị trường và giá đền bù, người dân bị lỗ 1000 tỷ nhân dân tệ (160 tỷ đôla). Có khỏang 50 triệu nông đã mất trắng đất cày và trong 20 năm tới, đạo binh «người cày không ruộng» tăng thêm 67 triệu nữa. 67% những vụ nổi dậy, điều mà CS dị ứng và nhậy cảm, sợ không nói ra đúng tên, như sĩ tử ngày xưa sợ phạm húy nên TC gọi là “sự cố tập thể”, và Việt Cộng gọi là “tụ tập đông người” - là bắt nguồn từ trưng thu đất đai. Theo giáo sư Tôn Lập Bình, đại học Thanh Hoa, trong năm 2010, mỗi ngày xảy ra ít nhất 500 «sự cố tập thể».

Còn ở VNCS có cả một phong trào dân oan bị Đảng Nhà Nước cướp giựt đất như kiểu Anh Đòan văn Vươn bị. Người dân Việt ở thành thị, lẫn nông thôn đều bị, bị từ Bắc, chí Nam, lên Cao Nguyên. Số đơn khiếu kiện cũng như những cuộc đấu tranh đòi đất bị cán bộ đảng viên cướp, chiếm phần lớn nhứt những cuộc đấu tranh, đòi hỏi của người dân, điều mà VCS Hà nội gọi là “tụ tập đông người”. Một “đại biểu nhân dân” của cái Quốc Hội “đảng cử dân bầu nói 80% các vu thưa kiện ở VN liên quan đến vấn đề trưng thu, cưỡng hành trung thu đất đai của dân.

Dân oan VN không những chỉ dân thường mà các chức sắc tôn giáo và tín hữu cũng bị cán bộ, đảng viên cướp đất, cướp nhà. Các cuộc đòi hỏi của dân oan của tôn giáo, của các tôn giáo ở VN, của Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo đã biến thành phong trào phản ứng không thể đảo ngược được nữa. Một thứ tiền đề cho cuộc đổi thay chánh trị ở xứ độc tài thường là cách mạng lật dổ nhà cầm quyền.. Sẽ còn nhiều Thái Hà nữa tứ Bắc chí Nam, qua Trung lên Cao Nguyên. Con số ngày càng tăng.

Đảng Nhà Nước CS Hà nội ở trung ương lâm vào thế bí, kẹt cứng vì chủ nghĩa CS, đất đai là thuộc sở hữu của nhà nước, chớ không phải của tư nhân, tư nhân chỉ có quyền sữ dụng chớ không có quyền sỡ hữu. Nên “ở trên” chỉ đùa đẩy những khiếu kiện của dân xuống dưới địa phương, mà không giải quyết được. Số vụ ngày càng tăng, tấm mức ngày càng rộng từ Bắc chí Nam lên Cao nguyên.

Ngay khi trung ương giải quyết cho dân oan, thì ở dưới cũng không thi hành. Cán bộ đảng viên địa phương tìm đủ mọi cách để diên trì, biến lịnh thành lạc. Tâm lý của cán bộ địa phương là trên ăn thì dưới cũng phải ăn, lớn ăn theo lớn, nhỏ ăn theo nhỏ.

Do đó phong trào dân oan ở các chế độ CS tăng chớ không giảm./.
_________________________________________

Mọi người nên xem lại sổ đỏ coi quyền xử dụng đất của mình chừng nào đáo hạng để lo toan hậu sự.

Chuyện động trời ở Tiên lãng
Thông tin lần đầu công bố
20/01/2012




Nguyễn Quang Vinh

Theo: Blog Cu Vinh


“Em biết nhiều chuyện, nhưng bây giờ em nói ra không khéo mà lộ, tối bọn xã hội đen đến nhà đâm chết em ngay. Vì bây giờ cái đầm ấy xã hội đen quản lý. Lấy của dân về giao cho xã hội đen, công an xuống đánh bạc cả đêm. Anh biết không? Biên phòng cũng vào đấy đánh bạc cả đêm. Đấy! anh thấy đấy! Còn gọi gì là chính quyền nữa. Đấy nói thẳng là đi ăn cướp! Hỏng hết rồi!”


Trưởng thôn Khoai Lang tôi đã có trong tay băng ghi âm quan trọng, ghi lại lời kể của hai cán bộ cốt cán có chức sắc tại xã Vinh Quang huyện Tiên Lãng và một chiến sĩ dân quân, người trực tiếp vụ cưỡng chế đất và nhà anh Đoàn Văn Vươn. Lời lể chân thật, không giấu diếm, tuy nhiên chúng tôi chưa thể công bố tên của họ. Nghe xong cuộc nói chuyện này, chắc chắn không một ai không giật mình trước một sự thật khó tưởng tượng về chủ tịch xã Vinh Quang Lê Văn Liêm, về hành vi cưỡng chế, mục đích cưỡng chế và những bí mật bỉ ổi của vụ việc này.

Trong quá trình rã băng ghi âm, chúng tôi giữ nguyên cách nói, cách dùng từ của người kể.

Đây là một câu chuyện động trời.

Ông Liêm chủ tịch xã Vinh Quang trước đây chỉ là một thằng bán bia chứ là gì. Dân người ta bảo xã này thiếu cha gì mà lại đưa thằng bán bia lên làm chủ tịch. Ông ấy có phải là cán bộ nguồn đâu. Đầu tiên làm bí thư chi bộ, rồi sau đó mấy tháng làm phó chủ tịch HĐND và lên làm chủ tịch luôn. Nhanh thôi!. Ngay trong năm 2008, khi Lê Văn Hiền lên chức Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng thì cùng thời điểm đó, Lê Văn Liêm được “cấu” vào nhân sự làm bí thư chi bộ thôn Đồn Dưới, tiếp đến cấu lên chức Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân xã và cuối cùng cả hai anh em Lê Văn Hiền và Lê Văn Liêm người lên chức chủ tịch huyện, người lên chức chủ tịch xã ngay trong năm 2008.

Hôm xảy ra chiến sự, một chị nhà báo phải vào nói với dân là cho mượn cái giỏ, một bộ quần áo để cải trang làm người dân đi bắt cáy mới tiếp cận được gần đầm để tác nghiệp. Còn lại một số phóng viên, báo chí phải đứng trên đê, bí mất chụp ảnh, ghi hình, ghi âm.

Em nghĩ sai lầm lớn nhất của lãnh đạo thành phố là đổ tội cho dân, chết ở cái chỗ đấy. Em nói thế này để anh hiểu này: Sau khi vợ ông Vươn, vợ ông Quý được thả, đi xe máy về đến cái đầu đê dốc chỗ Cống Rộc ý, đến nỗi người dân người ta móc tiền trong túi ra, người thì 50.000, người thì 100.000 đ, như kiểu là vợ ông Vươn hành khất luôn, họ vui lòng bỏ tiền ra. Hôm nọ anh Ngọc ở Đài THVN về tí nữa thì bị công an đánh. Xã chỉ thị cho công an, cho dân quân, nếu mà phóng viên báo chí về, thứ nhất là mời họ đi, nếu họ không đi, đuổi họ đi, nếu đuổi không đi thì cứ tự xử rồi là tội vạ đâu xã chịu. Anh tính, xã chỉ thị như thế đấy…! – Ông Liêm chỉ thị như thế. Nói thật là bây giờ người dân ta bức xúc lắm!

Ngày cưỡng chế, ông Liêm cho tập hợp một số dân quân, một số công an viên và nó giao nhiệm vụ tại trụ sở Ủy ban.. Chính ông Ngô Ngọc Khánh, Chánh VP UBND huyện nói rằng cấm các đồng chí không được bỏ máy điện thoại ra chụp, quay. Đấy, chính cái hôm nổ súng đấy.

Anh là phóng viên, em không biết là anh bênh ai, bênh huyện hay bênh ông Vươn, nhưng các anh nên lắng nghe người dân, bênh cái lẽ phải.. Phải gặp dân cơ, không gặp cán bộ được. Mấy xã này người dân ta bức xúc lắm. Cứ bảo được lòng dân nhưng thực chất toàn dối trên, chúng nói cứ nói điêu, dân người ta chán rồi đấy! Ông Vươn sử dụng vũ khí trái phép, chống người thi hành công vụ thì phải đi tù, nhưng ông Vươn không làm thế liệu trên có biết không? Chính đốn Đảng thì hãy bắt đầu từ Tiên Lãng đi.



Đây là nhà của Lê Văn Hiền, chủ tịch Tiên Lãng ( đối diện với cơ quan huyện ủy)

Hôm nay thằng P ở Hải Phòng gọi điện về bảo, người dân ngoài Hải Phòng người ta bảo ông Hiền sắp không có đất mà chui xuống nữa.

Em biết nhiều chuyện, nhưng bây giờ em nói ra không khéo mà lộ, tối bọn xã hội đen đến nhà đâm chết em ngay. Vì bây giờ cái đầm ấy xã hội đen quản lý. Lấy của dân về giao cho xã hội đen, công an xuống đánh bạc cả đêm. Anh biết không? Biên phòng cũng vào đấy đánh bạc cả đêm. Đấy! anh thấy đấy! Còn gọi gì là chính quyền nữa. Đấy nói thẳng là đi ăn cướp! Hỏng hết rồi!

Đổ tội oan cho nhân dân Vinh Quang! Đặc biệt là nhân dân xóm Chùa. Không nghĩ ông Đỗ Trung Thoại lại phát ngôn hồ đồ thế!

Chính vì cái vị trí quan trọng của cái đầm đấy cho nên ông Vươn mới bị thế. Nếu không có cái sân bay ở đấy xem người ta có đòi lại không? Không bao giờ có chuyện đòi lại!

Cái đầm của ông Luân kia nữa, nếu không có đường cao tốc duyên hải đi qua đấy thì liệu có cưỡng chế ông Luân không? Đấy cái đường đi qua đấy! Đi qua Tiên Lãng sang Thái Bình, vào Ninh Bình đấy! Đấy, đều là lý do kinh tế hết.

Người dân nói, từ hôm đấy đến nay, Báo An ninh Hải Phòng, Báo Hải Phòng, Đài Truyền hình Hải Phòng nói về vụ việc này có bài nào ra hồn đâu. Báo Trung ương với báo mạng người ta nói sắc nét đấy chứ! Đài truyền hình Hải Phòng có nói nhưng mà nói bênh vực. Đấy cho nên là thối nát rồi, dân không tin vào chính quyền nữa đâu anh ạ! Nếu mà không làm khéo thì khắp nơi họ bùng nên liệu có giữ được Đảng không? Muốn giữ được Đảng thì phải giữ được dân đã! Tôi cũng chỉ là nông dân thôi, hiểu đến đâu nói đến thế thôi! Nếu lần này mà cứ bênh thì mất hết, dân không còn tin Đảng nữa! Bây giờ Hải Phòng này với huyện, với xã, chúng tôi không tin đâu. Chúng tôi chỉ còn hy vọng và tin ở Trung ương nữa thôi.

Em lại nói với anh, sau khi cưỡng chế người ta xem có bao nhiêu đồ đạc thì phải niêm phong đúng không? Niêm phong đưa về xã hay đưa về huyện, rồi sau này bàn giao lại cho người ta. Đấy gọi là tang chứng, vật chứng. Họ phá xong rồi họ hôi của. Ông nào nhặt được cái gì thì nhặt! Bây giờ em nói thẳng nói thật luôn, ngay cả tay Xã đội phó nó còn bê trộm cả cái ổn áp của nhà ông Vươn về, chả còn cái gì để nói nữa. Di ảnh của bố và con ông Vươn bị đốt – Đấy là vấn đề tâm linh đấy. Bây giờ anh cứ vào hỏi toàn bộ người dân xóm Chùa đấy, ông Vươn không phải người ở đây, dân người ta khách quan nói khách quan thôi. Anh chứ vào đấy người ta sẽ trả lời cho anh hết. Còn bây giờ cứ cố ra đầm ấy là người ta đánh anh đấy. Công an không đánh đâu, họ giật dây cho xã hội đen đánh đấy. Anh cứ xuống đấy người ta đuổi anh lên đê là có bọn khác nó làm việc anh ngay. Xe máy, xe ô tô có biển HP còn đỡ đấy, chứ biển 29, 30, 80 và biển lạ là về đây không ổn rồi. Bọn em được chỉ thị là hàng ngày ngồi uống nước, mỗi ngày trả 100.000, cơm nuôi trưa, cơm nuôi tối, chỉ ngồi để săn các nhà báo thôi. Em đi mấy ngày, hôm qua hôm nay em mới nghỉ đấy chứ! Ừ thì mình làm đầy tớ cho chính quyền, người ta bảo sao thì nghe vậy, có điều mình thấy bức xúc! Ông Liêm nói là cứ ra kia ngồi, nhà báo đi đâu thì các đồng chí đi theo. Chính ông Liêm nói đấy nhé! Các ông cần vào đâu, vào nhà ông A, ông B, ông C tôi dẫn ông vào. Ông phỏng vấn tôi ngồi nghe, nếu người dân nói, phát ngôn hay nhà báo hỏi cái gì quá tôi có quyền can thiệp, tội vạ đâu chính quyền lo. Đấy chính là ông Liêm nói đấy! Còn những cái chỉ đạo ngầm kia thì em không muốn nói ra. Ông Liêm nói đấy!

Hôm em nói với anh Ngọc bên THVN đấy, là hôm nay em nói với anh, nếu lộ ra mà bọn xã hội đen nó biết thì ngày mai cái mạng em không chắc đã còn….

Không còn gì để bình luận.

Trưởng thôn Khoai Lang có trách nhiệm liên hệ và giao băng ghi âm, giao trực tiếp cho anh Vũ Trọng Kim, Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận TQ Việt Nam làm tài liệu để chuyển cho Đoàn thanh tra cuả Chính phủ về Hải Phòng sắp tới.
Thêm một vụ cưỡng chế đất tại huyện Bù Đăng

Quỳnh Chi, phóng viên RFA, Bangkok

2012-01-11


Một vụ cưỡng chế đất tại huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước diễn ra trước tết Dương lịch và kéo dài trong vòng 10 ngày. Người dân xã này nói gì về việc này? Quỳnh Chi tường trình trong phần sau:


 

Source cand.com
Nhiều khu vực trồng điều ở Bình Phước phải thu hoạch non trước thời hạn.

Lệnh: "làm trước tính sau"

Ngày 20 tháng 12 năm ngoái, UBND huyện Bù Đăng bắt đầu thực hiện cưỡng chế thu hồi đất tại tiểu khu 174, 175, 176, 177 tại Ban quản lý rừng phòng hộ Bù Đăng. Việc cưỡng chế được thực hiện trong vòng 10 ngày đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2011.

Bốn tiểu khu này nằm trên địa bàn 5 xã: Đak Nhau, Bom Bo, Bình Minh, Thọ Sơn, và Phú Sơn với hàng trăm hộ gia đình đang làm ăn sinh sống. Anh Quý, một người dân sinh sống tại xã Phú Sơn kể lại:

"Lớp thì ủi, lớp thì phá nhà, lớp thì chặt cây...làm ghê lắm.
"Họ xô nhà hết. Coi như là đau lắm chứ.
"Họ đâu có thông báo gì đâu. Họ chỉ xô nhà, chặt điều...rồi bỏ đi chứ không hề nói đến việc bồi thường hay tái định cư cho dân gì cả".

Họ đâu có thông báo gì đâu. Họ chỉ xô nhà, chặt điều...rồi bỏ đi chứ không hề nói đến việc bồi thường hay tái định cư cho dân gì cả.

 

Dân oan bị cướp đất kéo về Hà Nội khiếu kiện. Ảnh minh họa (Source damlambao)

Theo nguồn tin RFA nhận được, có ít nhất là 100 cảnh sát mặc sắc phục, cùng những người mặc thường phục tự xưng là được thuê đến thực hiện cưỡng chế. Chó săn, dùi cui, hơi cay, máy cưa, máy ủi đất...được sử dụng để phục vụ công tác cưỡng chế này. Qua trao đổi với RFA, bà con không được đọc lệnh cưỡng chế. Ngược lại, những người thực hiện cưỡng chế cho biết "làm trước tính sau". Bà Nguyễn Thị Lộc bức xúc nói:

"Mấy chục chiếc máy ủi cùng công an và nhiều người khác. Họ lấy máy cưa chặt điều, chặt cây. Máy ủi đi sau ủi hết. Bây giờ chỉ còn là bãi đất trắng.
"Không có một cái lệnh cưỡng chế nào cả. Khi có người đứng ra hỏi lệnh thì họ nói làm trước tính sau và cầm loa kêu mọi người bắt đầu. Sau đó thì bắt đầu họ cưa cây và giật sập nhà.
"Người ta có súng, có bình xịt hơi cay, và cưa...nên không ai đứng ra nói gì được. Đàn bà, con nít thì kêu khóc. Nhưng họ vẫn nói làm trước tính sau".

Không có một cái lệnh cưỡng chế nào cả. Khi có người đứng ra hỏi lệnh thì họ nói làm trước tính sau và cầm loa kêu mọi người bắt đầu. Sau đó thì bắt đầu họ cưa cây và giật sập nhà.

Khoảng vài tiếng đồng hồ sau khi bắt đầu, những người thực hiện cưỡng chế cho vài người dân xem một văn bản từ máy vi tính mà họ cho biết là lệnh cưỡng chế của Chủ tịch UBND huyện Bù Đăng. Tuy nhiên, những người được xem văn bản này cũng không xác định được đó có phải là quyết định cưỡng chế đất không. Ông Lý A Nanh là một trong vài người được nhìn thấy văn bản ấy, tuy nhiên, ông cũng không nhớ văn bản ấy nói gì:

"Chúng tôi cũng không kháng cự nhưng có một người đứng ra đòi giấy quyết định cưỡng chế. Mấy tiếng đồng hồ sau họ có tìm được một văn bản lưu trong mấy vi tính. Họ nói đó là quyết định của chủ tịch UBND huyện Bù Đăng. Đọc lệnh xong thì họ kêu phá nhà. Tôi nói với họ là thôi để tôi tự dỡ chứ phá hết rồi sau này làm sao làm lại. Họ vẫn tiếp tục đập phá nhà và tôi tiếp tục xin họ. Họ thấy như vậy mới không đập nữa mà để tôi tháo nhà xuống".

"Bao nhiêu năm nay công sức tôi bỏ ra. Có được một số đất và dành dụm xây được căn nhà. Bây giờ coi như trắng tay. Họ ủi hết. Bây giờ trống hết".

 

Sau khi bị thu đất hàng trăm người bị đẩy ra ven đường 
sống vất vưởng ở Bình Phước. Source nld.com

Theo lời dân nơi đây, đa số họ không dám phản kháng vì lực lượng cảnh sát khá đông. Tuy nhiên, một số người tỏ ra bức xúc và xảy ra va chạm với cảnh sát. Anh Hoàng Văn Đàm cũng bị cảnh sát còng tay. Anh nói:

"Họ xô xát tôi. Họ lôi tôi ra khỏi nhà nhưng tôi không chịu nên họ đánh tôi, còng tay tôi và đưa tôi lên xe. Khi họ ủi hết nhà cửa xong thì chiều hôm đó họ thả tôi ra".

Không thể coi thường nguyện vọng người dân
Dân ở khu vực bị thu hồi đất chủ yếu là người tứ xứ đến đây lập nghiệp từ năm 2000. Sau khi người dân tộc ở đây khai khẩn đất hoang, họ đã mua lại để canh tác và sinh sống. Bà con ở đây sống nhờ vào việc "lấy ngắn nuôi dài". Nghĩa là họ trồng khoai mì để thu hoạch mỗi năm lấy tiền trồng cây cao su, cà phê, cây điều... Hầu hết cư dân nơi đây chỉ có hộ khẩu nhưng không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng hoặc thuê đất.

Một số người trình bày với RFA, trong nhiều năm họ xin đăng ký quyền sử dụng đất nhưng không được giải quyết. Như vậy xét về mặt pháp lý, hầu hết họ gần như không thoả điều kiện được xem là có quyền sử dụng đất vì họ không canh tác từ trước năm 1993.


Họ phá hết rồi, kể cả những thửa điều mà tôi canh tác. Tôi nói với họ là phải bồi thường nhưng họ nói là chặt xong rồi bồi thường. Tôi không đồng ý và nói rằng nếu đã chặt xong thì chứng cứ đâu mà bồi thường

Tuy nhiên, việc cưỡng chế mà không có lệnh cũng như không thực hiện liệt kê tài sản trước khi cưỡng chế là sai qui trình thu hồi đất được qui định theo pháp luật Việt Nam. Ông Lý A Nanh nói thêm:


"Đất này cũng không có giấy tờ gì cả. Nói chung người dân tộc đã khai hoang trước đó và chúng tôi đến mua lại từ họ."


"Họ phá hết rồi, kể cả những thửa điều mà tôi canh tác. Tôi nói với họ là phải bồi thường nhưng họ nói là chặt xong rồi bồi thường. Tôi không đồng ý và nói rằng nếu đã chặt xong thì chứng cứ đâu mà bồi thường".


Vào tháng 6 năm 2011, người dân ở các tiểu khu nằm trong diện bị thu hồi đất nhận được thông báo mời họp về việc cưỡng chế đất dự tính diễn ra vào ngày 15 tháng 11 năm ngoái. Tuy nhiên, cuộc họp diễn ra một cách chóng vánh và cấp xã không giải quyết được thắc mắc, cũng như bức xúc của bà con.


Sau đó, bà con đã có đơn cứu xét với nhiều chữ ký gởi đến UBND huyện Bù Đăng, UBND tỉnh Bình Phước và Trung Ương để nêu lên hai nguyện vọng. Thứ nhất là được thuê đất để tiếp tục canh tác và sinh sống. Thứ hai là cho hoãn thời hạn cưỡng chế vào thời gian khác vì tháng 11 là tháng bà con thu hoạch nông sản. Anh Hoàng Văn Đàm trình bày:


Lúc trước tôi có gởi đơn lên Huyện và Tỉnh để khiếu nại xin cứu xét thuê đất và xin thu hoạch. Nhưng họ không giải quyết. Họ chỉ trả lời bằng miệng là họ không xem xét. Ông phó chủ tịch Huyện cũng nói như thế

"Lúc trước tôi có gởi đơn lên Huyện và Tỉnh để khiếu nại xin cứu xét thuê đất và xin thu hoạch. Nhưng họ không giải quyết. Họ chỉ trả lời bằng miệng là họ không xem xét. Ông phó chủ tịch Huyện cũng nói như thế".

Ông Lý A Nanh cũng cho biết:


"Họ không giải quyết gì cả. Chúng tôi đã lên trên tỉnh nằm đó vì mỗi lần đi là mấy ngày. Sau đó, có một công văn từ Hà Nội yêu cầu giải quyết cho bà con thỏa đáng nhưng Tỉnh không lo đến. Chúng tôi hẹn gặp ông Chủ tịch tỉnh Bình Phước nhưng ông không gặp".


Như vậy, văn bản mời họp vào tháng 6 năm ngoái là công văn duy nhất để người dân biết được đất của mình sẽ bị cưỡng chế. Sau đó, không có một văn bản nào của các cấp từ trung ương đến địa phương thông báo về kế họach cưỡng chế thu hồi đất. Và dĩ nhiên, cũng không có một hoạt động nào liên quan đến kế hoạch bồi thường tài sản trên đất.


Hiện tại, cả mấy trăm hộ tại 5 xã bị cưỡng chế đã mất trắng nhà cửa, ruộng vườn, gia súc cùng đồ đạc. Họ nhặt lại từng mảnh gỗ còn sót lại để dựng bạt sống tạm bợ vì cũng chưa biết đi đâu. Bà Nguyễn Thị Lộc cho biết:


Gia đình tôi mua đất này của người dân tộc. Bây giờ nhà nước lấy lại thì tôi cũng chịu trả nhưng mà tôi muốn cho tôi thuê lại như công ty thuê vậy đó. Để cho dân mình làm chứ lấy hết đất rồi thì dân có gì mà làm?

"Nhà cửa bị ủi hết. Tết tới nhà bà con đói lạnh. Bây giờ thì bà con vẫn ở trên đất đã bị ủi rồi. Nhưng mà gió đến là lạnh lắm".


Trong số hàng trăm hộ dân nằm trong diện bị cưỡng chế, anh Đàm Văn Lững đang bị công an tỉnh Bình Phước tạm giam từ tháng 11 năm ngoái mà chưa được thăm nuôi. Anh bị bắt sau khi cùng bà con lên tỉnh trình bày nguyện vọng của mình là được thuê đất làm ăn. Vợ anh Lững, chị Em cho biết:

"Sau khi cùng bà con đi xin cứu xét vấn đề cưỡng chế đất về, anh đi Sài Gòn khám bệnh thì bị bắt. Trại giam nói là trong vòng điều tra và không cho gặp mặt".


"Gia đình tôi mua đất này của người dân tộc. Bây giờ nhà nước lấy lại thì tôi cũng chịu trả nhưng mà tôi muốn cho tôi thuê lại như công ty thuê vậy đó. Để cho dân mình làm chứ lấy hết đất rồi thì dân có gì mà làm?"


Qua trao đổi trên đường dây nóng của một công ty chuyên tư vấn luật đất đai tại Việt Nam, đài RFA được cho biết vì những người dân này đến canh tác sau năm 1993 và không có giấy đăng ký sử dụng đất, muốn biết việc cưỡng chế có trái pháp luật không thì còn phụ thuộc vào dự án qui hoạch được ra đời lúc nào.


Và theo luật, người dân có thể tham gia hùng vốn trong dự án mới. Cũng theo vị luật sư này, mặc dù tính pháp lý quyền sử dụng đất của người dân tiểu khu 174, 175, 176, 177 không được rõ ràng, nhưng việc cưỡng chế cũng phải diễn ra minh bạch, đúng qui trình và họ phải được bồi thường tài sản trên đất bị thu hồi theo thoả thuận.